Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012

ĐẠO ÔNG BÀ


Cha con, con hãy hết lòng tôn kính,
Và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau
Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành,
Công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng?
(He 7,27-28)

Đạo, theo người Á Đông, chẳng phải là tôn giáo với những cơ chế, giáo điều, nghi thức. Đạo cũng chẳng phải con đường tìm kiếm Chân lý cách thông thái minh triết khôn ngoan. Ngay nói về Đạo, người Việt cũng chẳng biết, mà phải đợi đến khi có các bậc thánh hiền Trung Hoa cũng trong vùng văn minh nông nghiệp trồng lúa nước nói lên cho.
Ngàn năm làm ruộng, ngàn năm sống cùng thiên nhiên trời đất, ngàn năm xum vầy khôn lớn bên công cha nghĩa mẹ và tình thân ái xóm làng, người nông dân Việt Nam “thấy” tất cả thực tại gắn bó thiết thân đói no sống chết với mình là Đạo (Đạo ẩn trong đời).
Như vậy, đối với người dân Việt, Đạo trở nên một lối sống không còn là luật lệ cứng nhắc phải giữ, như bữa cơm hằng ngày gia đình xum vầy, như những ngày lễ hội vui của làng hay của cả đất nước…

I. NGUỒN GỐC ĐẠO ÔNG BÀ
1.1. Tại sao phải thờ ông bà tổ tiên
Dân tộc Việt Nam là dân tộc có tinh thần trọng nông do ảnh hưởng nông nghiệp trồng lúa nước, do đó có tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, phản ảnh đậm nét nguyên lý âm dương (thờ cúng trời đất, chim thú, tiên rồng…), khuynh hướng đề cao nữ tính (Bà Trời, Mẹ Đất, Bà Thuỷ, Bà Hoả, các nữ thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp…), qua đó thể hiện rõ tính đa thần, tính cộng đồng (Thành Hoàng, tập thể gia tiên, ba vị thổ công…) và tính dân chủ, con người có trách nhiệm thờ cúng thần linh và ngược lại, các vị thần linh có trách nhiệm phù hộ độ trì cho con cháu sinh sống làm ăn. Thậm chí, còn mang tính bổn phận con thảo đối với ông bà cha mẹ hay thể hiện một niềm tin đối với một đạo nào đó.
Với những phong tục tốt đẹp như vậy, việc cúng lễ là cần thiết và việc trọng kính tổ tiên không thể không có được. Đối với người lương (không theo đạo Công giáo) thì việc trọng kính tổ tiên là thờ phụng tổ tiên.

1.2. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và con người
1.2.1. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
Trong con người có vật chất và tinh thần, vật chất gắn liền với tự nhiên, là giai đoạn chủ yếu trong quá trình phát triển của con người. Người Việt Nam truyền thống sống bằng nghề nông, trồng lúa nước, nên rất phụ thuộc vào tự nhiên; do đó, hình thành tín ngưỡng đa thần. Đó là những Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước, thần Mặt Trời, các Bà Mây, Mưa, Sấm, Chớp là những hiện tượng tự nhiên có vai trò to lớn trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp. Ngoài ra, người Việt còn thờ các vị thần không gian (được hình dung theo thuyết Ngũ Hành Nương Nương, Ngũ Phương chi hành, Ngũ Đạo chi thần: coi sóc trung ương, bốn hướng và các ngã đường) và thần thời gian là Thập Nhị Hành Khiển (12 vị thần, mỗi vị coi sóc một năm theo Tí, Sửu, Dần, Mão…).
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên còn có việc thờ động vật và thực vật. Trong khi nếp sống trọng sức mạnh của những người du mục dẫn đến tục tôn thờ thú dữ (sói, hổ, chim ưng, đại bàng…) thì nếp sống tình cảm hiếu hoà của người Việt trồng lúa nước lại có tục thờ những con thú hiền như trâu, cóc, hươu, nai, chim, giao long…

1.2.2. Tín ngưỡng sùng bái con người
Như đã nói ở trên, đời sống con người gồm hai phần vật chất và tinh thần. Vật chất là những gì ở bên ngoài, cụ thể, ta có thể cân đo đong đếm để định giá và do đó có thể bắt nó phục vụ cho lợi ích của mình. Ngược lại, phần tinh thần của con người thì trừu tượng, khó nắm bắt, và bất cứ ai nếu một lúc nào đó nghĩ về ý nghĩa cuộc sống đều tin và công nhận có một đời sống Tâm Linh, và đó chính là đầu mối của tín ngưỡng sùng bái con người.
Tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên không phải là một tôn giáo, do đó không thể gọi là đạo được. Là một đạo phải có giáo chủ và giáo luật và việc hành đạo phải qua trung gian giáo sĩ. Người theo đạo Thiên Chúa, tuy không tôn thờ tổ tiên nhưng không phải là không trọng kính tổ tiên. Đặc biệt là những ngày giỗ. Tục ta tin rằng dương sao âm vậy: người sống cần gì, sống làm sao thì người chết cũng như vậy nghĩa là họ có một CUỘC SỐNG ở cõi âm như cuộc sống người trần trên dương thế. Hơn nữa, tục còn tin rằng các vọng hồn của người đã khuất luôn ngự trị trên bàn thờ để gần gũi con cháu, theo sát và giúp đỡ con cháu trong những trường hợp cần thiết; và ngược lại, nhiều người vì sợ vong hồn tổ tiên buồn nên đã tránh những hành vi xấu xa nên khi làm việc gì cũng suy tính kỹ lưỡng: không làm những việc trái với lương tâm, tỏ lòng hiếu thảo với tổ tiên và hợp tình với những người thân thuộc.
Việc sùng bái con người có nhiều dạng khác nhau: sùng bái ông bà tổ tiên, sùng bái các vị thần tại gia (như đất có Thổ Công, sông có Hà Bá, Thần Tài, Tiên Sư, Tiên Chủ, Đức Thánh Quan, Thổ Địa…).
Ngoài các vị thần sùng bái ở tư gia, còn có các vị thần chung của thôn xã hay toàn quốc được thờ tự nơi công cộng như Thành Hoàng: ngài là một vị thần cai quản toàn thể thôn xã, che chở cho dân trong thôn trong xã chống lại mọi ác thần, giúp đỡ cho thôn xã được thịnh vượng. Ví như các vị anh hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Lý Ông Trọng, Hai Bà Trưng, Bà Lê Chân… Khi sinh thời các vị này đã từng cứu sự nan nguy của quốc gia, giết giặc lập công, lúc chết được nhà vua và nhân dân nhớ ơn lập đền thờ tôn kính.
Trong các vị thần được dân chúng Việt Nam tôn thờ, còn có 4 vị thần được coi là Tứ Bất Tử, tục truyền các vị này đã không chết và biến về trời. Tứ bất tử là: Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh Công Chúa, Tản Viên Sơn Thần và Phù Đổng Thiên Vương.

1.3. Nghi lễ tế tự ở gia tộc
Dân tộc Việt Nam là dân tộc có nhiều tín ngưỡng do tự tâm hay do được truyền đạo từ Trung Quốc, Ấn Độ, Châu Âu. Mỗi đạo đều có những giáo luật và giáo sĩ cũng như những nơi cử hành nghi lễ. Trong phạm vi này em xin nói phần tế tự ở gia tộc.
Nhà nào sùng kính gia tộc cũng có bàn thờ tổ tiên ở giữa nhà. Nhà người tộc trưởng thường để gian giữa làm nhà thờ họ (từ đường). Trên bàn thờ, ngoài các đồ thờ như: đỉnh trầm, cây sáp (đồ tam sự hay ngũ sư), mâm bồng, giá chén; thì ở giữa có bài vị của tổ tiên. Những bài vị ấy của tổ tiên tứ đại, từ đời cụ trở xuống, vì bài vị tổ tiên ngũ đại (đời cố) thì phải chôn đi.
Người chủ trì việc tế tự tổ tiên là gia trưởng, con trai trưởng, ở trong gia đình nhỏ, và tộc trưởng, trưởng nam, ở trong gia tộc. Những ngày phải tế tự là những ngày giỗ và tết. Mỗi năm cứ đúng ngày thọ chung của mỗi vị tổ tiên, tức là ngày kỵ hay ngày huý, thì gia trưởng phải liệu hương vàng trầu rượu cỗ bàn để cúng giỗ. Đầu thì khấn toàn thể tổ tiên, sau khấn riêng vong linh vị ấy về hưởng lễ.
Ngoài ngày giỗ mỗi vị tiên nhân, còn các ngày tết Hàn Thực (3/3 ÂL, tết Thanh Minh (tháng 3 ÂL), tết Trùng Cửu (9/9 ÂL), tết Cơm Mới (tháng 9 ÂL), tết Thượng Nguyên (rằm tháng giêng), tết Trung Nguyên (rằm tháng 7), tết Hạ Nguyên (rằm tháng 10), và nhất là tết Nguyên Đán (từ 30 tháng chạp đến mồng ba tháng giêng thì có lễ tế chung cả tổ tiên, lễ rước và đưa ông bà). Ngoài các ngày giỗ tết ra, mỗi khi trong nhà có việc vui mừng, như lễ cưới, lễ thọ, ăn mừng thi đậu, khao vọng hay có việc buồn như lễ tang, lễ chay cũng đặt lễ để cáo tổ tiên.
Những ngày tết lớn, người gia trưởng làm lễ ở nhà, rồi còn phải đến nhà thờ họ để làm lễ nữa.
Vì việc tế tự tổ tiên là một nghĩa vụ nghiêm mật, con cháu không khi nào được bỏ, cho nên các nhà khá giả, người ta thường trích trong di sản một phần tư tài sản gọi là “phần hương hoả” giao cho người tộc trưởng hoặc người chi trưởng để lo tế tự tổ tiên ở nhà thờ họ và nhà thờ chi.
Thường có một quyển sổ để ghi chép thế thứ và tên họ cùng ngày tháng sinh tử của tổ tiên gọi là gia phả. Những nhà phú quí thì gia phả thường chép cả công nghiệp sự trạng của tổ tiên như một bản sứ của gia tộc.

2. ĐẠO ÔNG BÀ VÀ KITÔ GIÁO
2.1. Trước Công đồng Vatican II
Trong quá trình đi rao giảng Tin Mừng, một số thừa sai đã thấy tầm quan trọng của việc hội nhập văn hoá, cần có biện pháp cải tổ trên cơ sở nghiên cứu các tôn giáo lâu đời, học thuyết và tập tục của người bản địa. Người khởi xướng là Cha Mateo Ricci, dòng Tên: ngài lấy tên là Ký Mã Thi và phục sức theo lối Trung Quốc. Các vị này thấy sự gần gũi giữa Nho giáo với Tin Mừng của Chúa Giêsu. Các vị cho rằng: có thể chấp nhận một số tập tục truyền thống của Trung Quốc: thờ cúng tổ tiên với vài cải tổ mà vẫn phù hợp với luật Chúa và Giáo Hội.
Giáo hoàng Alexandre VII kế vị Đức Innocente X, sau khi nghe toà điều tra phúc trình, ngày 23-3-1656, ngài đã ký sắc lệnh ủng hộ (ngược lại với sắc lệnh của vị tiền nhiệm) sáng kiến của các vị thừa sai này. Năm 1669, Đức Clêmentê cho phép tuỳ nghi sử dụng cho thích hợp. Tuy nhiên, ngày 19-3-1715, Đức Clêmentê XI ra Tông chiếu “Ex illa die” buộc mọi người phải thông hảo với Toà thánh, ra vạ tuyệt thông cho ai giữ lễ nghi đã bị bác bỏ, đồng thời buộc các thừa sai Đông phương phải tuyên thệ trung thành với Toà Thánh. Vua Khang Hy (Trung Quốc) coi việc bác bỏ lễ nghi này như một hành động nhục mạ quốc thể Trung Hoa, ông ra lệnh triệt hạ các Thánh đường, trục xuất các thừa sai và cấm dân Trung Hoa theo đạo. Những vị Giáo hoàng tiếp theo do áp lực của Giáo hội Tây Âu và một số dòng truyền giáo ở vùng châu Á (như Đa Minh) đã kịch liệt phản đối và tuyên bố phạt vạ tuyệt thông đối với ai vi phạm.
Tại Việt Nam, Cha Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) cũng theo các thừa sai dòng Tên bên Trung Quốc cho phép giáo dân Việt Nam được thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên. Tuy nhiên, các vị đã bị cấm cản từ phía Giáo Hội, Cha Bá Đa Lộc bị doạ phạt và tuyệt thông.
Ngày 13-5-1658, Bộ Truyền giáo Lamã chỉ thị thật rõ khi cử hai giám mục đầu tiên sang Trung Hoa và miền Đông Á: “Có gì vô giá vô nghĩa cho bằng đem vào Trung Hoa và châu Á: nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý hoặc một nước nào khác ở Âu châu, bổn phận chúng ta là đem Tin mừng cho họ. Đức tin không loại bỏ, không huỷ hoại mà còn bảo vệ lễ nghi và tập tục của các dân tộc, miễn là những lễ nghi và tập tục đó không có gì xấu (Trương Bá Cần, tạp chí Đối Diện số 1, tháng 7–1969).
Trở lại lịch sử Giáo Hội những thời kỳ đầu, ta thấy Giáo Hội được đón nhận rộng rãi ở Châu Âu, có một phần đóng góp không nhỏ là Giáo Hội đã chấp nhận cái hay, cái tinh tuý của văn hoá đó, thánh hoá nó và mặc cho nó một ý nghĩa mới phù hợp với Tin Mừng. Ví dụ: Lễ Giáng Sinh vốn là lễ thờ thần mặt trời của người Lamã, Deus từ tiếng Zeus trong thần thoại của La-Hy. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhập gia tuỳ tục, đáo giang tuỳ khúc”.
Các vị chức trách trong Giáo Hội thời đó không thấy được rằng các quốc gia Đông phương đã có một nền văn hoá đã định hình và phát triển lâu đời, không giống với các miền mà nền văn hoá đang còn buổi ban sơ. Các ngài muốn truyền đạo đã thấm nhuần nền văn hoá phương Tây, thiếu tôn trọng nếu không muốn nói là coi thường nền văn hoá phương Đông.
Chúng ta: “Không nên oán trách họ (các thừa sai) nhưng phải nhận rằng họ đã để lại cho Giáo hội Á châu một di sản nặng nề (các Giám mục Á châu nhóm họp tháng 12-1970, tại Manila, nhân chuyến công du của Đức Giáo hoàng Phaolô VI tại đây).
Vốn sẵn có ác cảm với đạo Công giáo, lại thêm sự khắt khe, cấm đoán trong việc thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên, các nhà Nho lên án đạo này và cho đó là một thứ đạo ngoại lai; những người theo đạo là những người bất hiếu với Ông Bà Tổ Tiên. Cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu, một nhà nho yêu nước đã viết mạnh mẽ rằng:
“Thà đui mà giữ đạo nhà,
Còn hơn sáng mắt ông cha không thờ”.
Các vị thừa sai trong thời ấy coi việc thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên là một việc làm xấu xa, thậm chí còn xem đó là việc làm của ma quỉ, các vị không thể hiểu được người Châu Á nói chung và người Việt Nam nói riêng. Thánh Phanxicô Xaviê khi được những người Nhật Bản mới theo đạo hỏi về số phận Ông Bà Tổ Tiên của họ đã qua đời nhưng chưa kịp chịu phép Rửa, ngài trả lời họ không nghĩ ngợi: “Họ sa hoả ngục tất cả”. Chúng ta không thể trách những vị ấy được vì khi đó các ngài hiểu về các tôn giáo khác như thế: “Ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ”.
Ngày 26-3-1936, Thánh Bộ Truyền giáo ban Huấn dụ Pluries instantergue cất đi gánh nặng từ lâu đè lên lương tâm người Kitô hữu Nhật Bản: những lễ nghi hoàn toàn chỉ biểu lộ tinh thần quốc gia trong Thần đạo (Shintoisme). Trong huấn dụ Flane compertum est ngày 8-12-1939 về nghi lễ Trung Hoa đối với Khổng Tử và tổ tiên, ngày 9-4-1940 về nghi lễ Malabar bên Ấn Độ: thay bái gối bằng chắp tay cúi đầu, dùng đèn dầu thay đèn cầy, ngồi bàn toạ trên nền cung Thánh trong giờ cử hành lễ nghi phụng vụ.

2.2. Đạo Ông Bà Tổ Tiên ở Việt Nam sau CĐ. Vatican II
Công đồng Vatican II (1962-1965) bắt đầu thời kỳ “mở cửa” của Giáo hội Công giáo. Các nghị phụ của Công đồng đã xem xét, bàn bạc đến mọi lĩnh vực của Giáo Hội. Công đồng như một cột mốc chuẩn bị cho thời đại đổi thay mà chúng ta ngày nay đang sống. Vấn đề VĂN HOÁ được đặt ra mở đường cho phong trào hội nhập văn hoá và Tin Mừng hoá trong nửa sau thế kỷ 20 và bước vào thiên niên kỷ thứ ba.

2.2.1. Thiên Chúa chỉ cho nhân loại con đường cứu rỗi
Đức Giêsu một nhân vật lịch sử. Kitô giáo được thiết lập trên đất Palestin, trong môi trường văn hoá Sêmit và trên phương diện nào đó tiếp nối một phần tín ngưỡng Do Thái. Đức Giêsu, Đấng sáng lập, đã sai các môn đệ của ngài đi khắp thế gian rao truyền Tin Mừng cho tới tận cùng thế giới. Kitô giáo nguyên thuỷ được truyền lan và mau chóng hoà nhập vào trong những môi trường xã hội mới. Qua thời gian, Giáo Hội của Đức Giêsu ngày càng vững mạnh và trở nên cứng nhắc dẫn đến những chia rẽ.
Suốt từ thời Trung Cổ và kéo dài cho đến tận những năm 60 của thế kỷ 20, những nhà truyền giáo thuộc Giáo hội Công giáo vẫn tự coi mình như những người đem “ánh sáng”, “ánh sáng Chúa Kitô”, đến cho những dân tộc bản xứ vốn còn trong “bóng tối”. Nền văn hoá, niềm tin, và cách thực hành tôn giáo của những dân tộc này là sai lầm. Chính các thừa sai tự coi mình như những người đem lời và sự hiện diện của Thiên Chúa cho những dân tộc không có đức tin này.
Thực sự thì các thừa sai “chẳng đem Chúa” đến cho ai cả, vì Thiên Chúa luôn hiện diện trước mặt những con người đó nhưng họ chưa nhận ra. Có chăng các ngài đến làm chứng cho tính cách phổ quát của tình yêu Thiên Chúa, đến để sống đạo yêu thương của Đức Giêsu trong hoàn cảnh cụ thể. Giả sử mọi nền văn hoá khác đều là “ngoại lai”, “ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ”, thì xem ra Thiên Chúa của Kitô giáo là Thiên Chúa ích kỷ. Ngài chỉ ở giữa các Kitô hữu và hướng dẫn họ mà thôi, còn những người khác thì mặc. Đó hiển nhiên là một Thiên Chúa hà khắc và thiên tư của Cựu ước, chứ không phải là Đấng yêu thương toàn thể nhân loại.
Thánh Công đồng tuyên bố rằng chính Thiên Chúa đã chỉ cho nhân loại biết con đường, để nhờ đó, trong khi phụng thờ ngài, con người có thể được cứu rỗi và hạnh phúc trong Chúa Kitô (Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo – Dignitatis Humanae).
Công đồng Vatican II đã vẽ lại hình ảnh về một Thiên Chúa yêu thương khi công nhận giá trị tốt đẹp của các tôn giáo khác.
Các tôn giáo khác trên hoàn cầu đều cố công làm cho tâm hồn con người thoát khỏi những băn khoăn bằng nhiều phương thế khác nhau, bằng cách vạch đường chỉ lối, tức đề xướng những giáo thuyết và luật sống cũng như những lễ nghi phụng tự.
Giáo hội Công giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy có nhiều điểm khác với chủ trương mà Giáo Hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của chân lý, chân lý chiếu soi cho hết mọi người. Tuy nhiên, Giáo Hội rao giảng và có bổn phận phải kiên trì rao giảng Chúa Kitô, Đấng là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Ga 14,6) nơi Người, con người tìm thấy đời sống tôn giáo sung mãn và nhờ người, Thiên Chúa giao hoà mọi sự với mình.
Vì thế, Giáo Hội khuyến khích con cái mình nhìn nhận, duy trì và cổ động cho những thiên ích thiêng liêng cũng như luân lý và những giá trị văn hoá của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng con đường đối thoại và hợp tác cách thận trọng và bác ái với tín đồ các tôn giáo ấy mà vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống Kitô giáo (Tuyên ngôn về Liên lạc của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo).
Tại Việt Nam, Hội đồng Giám mục cũng có một văn bản trình bày quan điểm của Giáo Hội đối với việc thờ kính ông bà tổ tiên.
Chúng tôi, các Giám mục chủ toạ khoá hội thảo VII về Truyền bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang từ ngày 12 đến 14-11-1974, đồng chấp thuận cho phổ biến và thi hành trong toàn quốc, những quyết nghị của Uỷ ban Giám mục về Truyền bá Phúc Âm ngày 19-4-1972, chiếu theo Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam ngày 14-6-1965, về các nghi lễ tôn kính ông bà tổ tiên như sau:
Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định: “Những cử chỉ, thái độ, lễ nghi sau đây có tính cách thế tục, lịch sử, xã giao, để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ động” (Thông báo HĐGMVN, 14-6-1965).
1. Bàn thờ Gia Tiên để kính nhớ ông bà tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như Hồn bạch…
2. Việc đốt nhang hương, đèn nến, trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.
3. Ngày giỗ cũng là ngày “Kỵ nhật” được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương, miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín. Như đốt vàng mã… và giảm thiểu, cải cách những lễ vật để biểu dương đúng ý nghĩa thành kính, biết ơn ông bà tổ tiên, như dâng hoa trái, hương đèn.
4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với ông bà.
5. Trong hôn lễ, được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất, cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương, nghiêng mình trước thi hài người quá cố…
6. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị Thành Hoàng, quen gọi là “Phúc Thần” tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc, hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải vì mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”.
Trong trường hợp thi hành các việc trên đây nếu sợ có sự hiểu lầm, nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu, khích lệ, thông cảm… Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính Tổ tiên và các vị anh hùng liệt sĩ, theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền “phải thảo kính cha mẹ” là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa.

2.2.2. Thực tiễn sinh động
Cộng đồng Vatican II kết thúc đã gần nửa thế kỷ, Thượng Hội đồng Giám mục Á Châu vừa họp xong chưa đầy một năm, có nhiều đổi thay nhiều cách nhìn mới trong Giáo Hội về vấn đề văn hoá. Nhưng đối với đa số người Việt nói chung và người Việt công giáo nói riêng, những đổi mới đó vẫn còn xa lạ vì thế vẫn còn tồn tại những hiểu lầm đáng tiếc (người tân tòng là con trai trưởng, hôn nhân không cùng tôn giáo…). Nhưng xét cho cùng đó chỉ là cớ che đậy những mâu thuẫn, những bất đồng khác.
Quan niệm theo Chúa là bỏ bàn thờ ông bà tổ tiên không còn đúng nữa. Trong nhà, bàn thờ tổ dù có hay không, được trưng bày cách này hay cách khác, nhưng tấm lòng của con cháu vẫn tưởng nhớ về những bậc sinh thành đã khuất. Lòng tưởng nhớ đó được thể hiện qua việc cầu nguyện, trong thánh lễ hay kinh nguyện chung của con cháu, cho linh hồn người đã khuất trong ngày giỗ kỵ. Với nhiều người không Công giáo Việt Nam, rằm tháng 7: ngày xá tội vong nhân, người Công giáo có tháng 11 cầu cho các đẳng linh hồn. Thanh minh trong tiết tháng 3, cũng như những người Việt Nam khác, các tín hữu Công giáo cũng lợi dụng tiết xuân trở về thăm lại nơi yên nghỉ của những người thân thuộc ông bà cha mẹ, sửa sang lại phần mộ của họ. Tại nhiều nơi, ngày 2-11 và ngày Mồng Hai tết hằng năm, thánh lễ được tổ chức ngay tại nghĩa trang. Trong bầu không khí tĩnh lặng của buổi chiều tàn, từng làn khói hương trầm nghi ngút, cả gia đình cùng quây quần bên phần mộ của người thân cùng hiệp dâng thánh lễ cầu cho ông bà tổ tiên. Thật cảm động bầu khí linh thiêng của mầu nhiệm Hội thánh cùng hiệp thông.
Trong tâm thức người Việt, sự tôn kính các đấng sinh thành (dù còn sống hay đã qua đời) đã ăn sâu trong lòng như hình ảnh cây đa cổng làng, như luỹ tre xanh… Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, lòng tôn kính này đã giảm sút ít nhiều. Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá. Ngôi làng với luỹ tre xanh đang dần được thay thế bằng những toà nhà bê tông sừng sững mang đường nét mạnh mẽ nhưng cô đơn như những con người sống trong đó. Mái nhà che chở cho gia đình 3 thế hệ đang lung lay.
Tại Thượng Hội đồng Giám mục Á châu 1998, một nghị phụ đã nêu lên một vấn đề về mục vụ liên quan đến công cuộc rao giảng Tin Mừng tại Lục địa Á châu: “Đó là vấn đề liên quan đến việc tôn kính ông bà tổ tiên tại Việt Nam. Dù là một thiểu số, nhưng sự hiện diện của người Công giáo Việt Nam rất quan trọng trong việc thăng tiến con người. Nhưng chính vì tính cách thiểu số này, mà người ta cần phải có can đảm đề nghị và củng cố tại Á châu một “Giáo Hội như một gia đình” dấn thân rao giảng Tin Mừng, mà đặc điểm là tình yêu thương, chớ không phải là một tính toán hoặc trục lợi. Và tiêu chuẩn duy nhất để đo lường việc rao giảng là chính tình yêu đối với Chúa Kitô và tính cách nhưng không của các ơn Chúa ban”. (Thượng Hội đồng Giám mục, Phiên khoáng đại thứ 9, thứ sáu 24-4-1998, prepared for internet by Msgr. Peter Nguyễn Văn Tài, Radio Veritas Asia, Philippines).
Như vậy, đạo ông bà tổ tiên không phải chỉ là kính nhớ người đã khuất, nhưng còn là sự chia sẻ hiệp thông với tha nhân, những người sống xung quanh ta, nhất là ông bà chú bác trong dòng họ. Đó chính là sống Tin Mừng, sống tình yêu Thiên Chúa nơi trần gian này với Đức Giêsu đã dạy:
Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

KẾT LUẬN
Là người Việt, ai chẳng thuộc lòng câu ca dao:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Thờ cha kính mẹ không chỉ là tôn kính đối với những người sinh thành dưỡng dục ta nên người mà còn là những người đã xây dựng nên và gìn giữ cho giang sơn gấm vóc này được thanh bình. Như vậy, việc thờ kính ông bà tổ tiên là truyền thống hết sức quí báu của dân tộc ta. Trong đà tiến công nghiệp và đô thị hoá, người Việt Nam cần phải bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp này hầu trụ đỡ cho rường mối gia đình ngày càng phải chịu nhiều áp lực của xã hội tiêu thụ hướng chiều về vật chất. Người Công giáo lại càng phải ra công học hỏi để hội nhập nét văn hoá rất Việt Nam này vào trong Kitô giáo để tiến tới xây dựng Giáo hội Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
***

Tài liệu tham khảo
Tạp chí
- Thái Sơn, “Ngẫm nghĩ về cuộc nhập thể văn hoá của Giáo hội Việt Nam”, Thời sự Thần học, số 10-1997.
- GROOME, Thomas, K’Bao dịch, “Hội nhập văn hoá xúc tiến thế nào trong khung cảnh mục vụ”, Thời sự Thần học, số 12-1998.
- Hoành Sơn, “Hội nhập văn hoá và tầng nền tâm hệ Việt Nam”, Hợp tuyển Thần học (tập phổ biến thần học, phát hành không định kỳ), số 16 năm VI (1996).
- Đặng Chí San OP, “Đạo ẩn trong đời” Nguyệt san Công giáo và Dân tộc, số 43, tháng 7-1998.
Các sách
- Thánh Công đồng Vatican II, Phân khoa Thần học, Giáo Hoàng học viện Pio X, Đà Lạt.
- Lm. Bùi Đức Sinh, OP, Lịch sử Giáo hội Công giáo, in lần thứ hai, Chân lý, Sài Gòn, 1994.
- Lm. Bùi Đức Sinh, OP, Giáo hội Công giáo ở Việt Nam.
- Lm. Bùi Đức Sinh, OP, Dòng Đaminh trên đất Việt, in lần hai, Sài Gòn, 1993.
- Lm. Thiện Cẩm, OP, Tạ ơn người đã chết.
- Lm. Thiện Cẩm, OP, Cỏ dại ven đường (tập I), Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế, in lần thứ ba, 1997.
- Nguyễn Chính Kết, Thích ứng và hội nhập văn hoá trong truyền giáo, TP. HCM, 1998.
- Lý Chánh Trung, Tôn giáo và dân tộc (in lần thứ nhất), Sài Gòn, Lửa thiêng 1973.
- Kỷ yếu hội nghị khoa học tại TP. HCM ngày 11-12/3/1988. Một số vấn đề lịch sử đạo Thiên Chúa trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Viện KHXH & Ban Tôn giáo (Lưu hành nội bộ), TP. HCM 1988.
- Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, Xuất bản Bốn Phương, Viện Giáo khoa – Hiên Tân Biên (tái bản).
- Toan Ánh, Tín Ngưỡng Việt Nam (quyển thượng), TP. HCM, NXB TP. HCM, 1992.
- Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, TP. HCM, NXB TP. HCM, 1996.

(TSTH số số 1-2010)
Phan Cường, OP
Nguồn: Đaminh VN

CHÚC MỪNG SINH NHẬT 130 TUỔI CỦA CHỮ VIỆT

Happy 130th Birthday to Chữ Việt: January 1, 1882 to January 1, 2012
Chúc mừng Sinh nhật 130 tuổi của Chữ Việt:
Từ ngày 1-1-1822 đến ngày 1-1-2012
 
Một trang của "Phép Giảng Tám Ngày" của Lm. Alexandre De Rhodes

Ngày 1-1-1882, cách nay 130 năm, là ngày Thống đốc Nam Kỳ Lafont của chính quyền thuộc địa Pháp ký nghị định bắt buộc người Việt Nam phải dùng chữ Quốc ngữ hay chữ Việt thay vì dùng chữ Nôm và chữ Nho. Do biến cố lịch sử này, chúng ta tạm chọn ngày 1-1-1882 làm ngày sinh cho Chữ Việt - Chữ tôi đang viết và quý vị đang đọc ở đây. 
Nguyên văn Điều 1 và Điều 2 của Nghị định Lafont như sau: 

Điều 1: kể từ ngày 1-1-1882, tất cả những văn kiện chính thức, nghị định, quyết định, sắc lệnh, phán quyết, chỉ thị… sẽ được viết, ký và công bố bằng chữ mẫu tự Latinh.

Điều 2: kể từ ngày trên (1-1-1882), không một tuyển dụng nào được thi hành, không một thăng trật nào được cho phép, trong ngạch phủ, huyện, tổng đối với bất cứ ai không ở trong tình trạng viết được chữ Quốc ngữ

Đã có nhiều Giấy Khai Sinh và Giấy Thế Vì Khai Sinh đã được cấp cho Chữ Việt. Có giấy thì đề năm 1651 của Giáo sĩ Đắc Lộ, có giấy thì đề năm 1838 của Giám mục Bá Đa Lộc, có giấy thì đề năm 1865 của Gia Định Báo… Chúng ta xin dành việc thẩm định chính xác về ngày sinh của Chữ Việt cho các nhà sử học và ngôn ngữ học. 
Trong giới hạn của một bài báo, chúng tôi xin mời quý vị đọc bài tóm lược về Chữ Việt được in trong Bách khoa Toàn thư Wikipedia. Xin bấm vào link sau đây để đọc toàn phần. 

Sơ lược lịch sử chữ Việt (chữ Quốc ngữ)
Thế kỷ 16-18
1.  Chữ Việt đã xuất hiện phôi thai vào khoảng thế kỷ 16 khi các giáo sĩ Tây phương đầu tiên đến Việt Nam và giao tiếp với người Việt và ngôn ngữ Việt. 
2.  Trước tiên là giáo sĩ dòng Phanxicô (từ Bồ Đào Nha), kế đến là giáo sĩ dòng Đa Minh rồi dòng Tên (từ Tây Ban Nha). Tên tuổi những giáo sĩ đã tiên phong góp công trong việc hoàn chỉnh chữ Việt gồm có Gaspar do AmaralAntonio Barbosa và Francisco de Pina.

3.  Giáo sĩ Đắc Lộ (tức Alexandre de Rhodes), người Pháp, được coi là người có công nhiều trong việc định chế chữ quốc ngữ qua cuốn tự điển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum mà ông soạn và in ra năm 1651.

Thế kỷ 19
1.  Một mốc quan trọng của chữ Quốc ngữ là cuốn tự điển của Giáo sĩ Jean-Louis Taberd, in năm 1838, căn cứ vào những sửa chữa của Giám mục Bá Đa Lộc. Cuốn tự điển của Bá Đa Lộc được soạn từ năm 1773 đến 1815 thì hoàn thành, mang tên Dictionarium Annamatico-latinum nhưng chưa được in ra (bản viết tay nay còn giữ ở Văn khố Hội Truyền giáo Paris). Trong khi đó tự điển của Taberd mang tên Nam Việt Dương hiệp Tự vị (tựa tiếng Latinh cũng giống như cuốn của Bá Đa Lộc là Dictionarium Annamatico-latinum) được in ở Serampore, Ấn Độ.
2.  Vào thời điểm này, phạm vi dùng chữ Quốc ngữ vẫn hạn chế trong việc ghi chép của cộng đồngCông giáo. Ngoài ra đại chúng người Việt không dùng lối chữ này.
3.  Chữ Quốc ngữ trên chặng đường hơn 300 năm vẫn không được công nhận là văn tự chính thức cho tới khi người Pháp chiếm lấy Nam Kỳ vào cuối thế kỷ 19.
4.  Ngày 22 tháng 2 năm 1869, Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier ký nghị định bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nho trong các công văn.
5.  Ngày 1 tháng 1 năm 1879, chính quyền Pháp ra lệnh đòi các văn kiện chính thức phải dùng chữ Quốc ngữ. Cũng năm đó chính quyền Pháp đưa chữ Quốc ngữ vào ngành giáo dục, bắt đầu ở các thôn xã Nam Kỳ phải dạy lối chữ này.
6.  Vào ngày 1-1-1882, cách nay 130 năm, là ngày Thống đốc Nam Kỳ Lafont của chính quyền thuộc địa Pháp đã ký nghị định bắt buộc người Việt Nam phải dùng chữ quốc ngữ hay chữ Việt thay vì dùng chữ Nôm và chữ Nho.

Thế kỷ 20
1.  Sang thế kỷ 20 thì chính phủ Đông Pháp mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ, giao cho Nha Học chính giảng dạy ở Bắc Kỳ từ năm 1910. 
2.  Năm 1915 thì kỳ thi Hương cuối cùng diễn ra ở Bắc Kỳ mặc cho sự chống đối của giới sĩ phu.

3.  Ở Trung Kỳ thì đạo dụ của vua Khải Định ngày 26 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 28 tháng 12 năm 1918) chính thức bãi bỏ khoa cử và năm 1919 là năm cuối mở khoa thi ở Huế.

4.  Chữ Quốc ngữ từ đó trở thành phương tiện diễn đạt duy nhất của người Việt trong khi địa vị Chữ Nho và chữ Nôm càng mờ nhạt tuy chưa mất hẳn nhưng lui dần vào quá khứ.
5.  Chữ Quốc ngữ qua những tác phẩm biên khảophóng sựbình luậndu ký của những Nam Phong Tạp chíĐông Dương Tạp chí, cùng một loạt tiểu thuyết và thơ mới của nhóm Tự Lực Văn Đoàn với tư tưởng mới, phong cách mới cũng và nhiều tác giả khác đã chứng minh chức năng toàn diện của chữ Quốc ngữ làm văn tự của người Việt để rồi sau năm 1945 các chính quyền kế thừa đều công nhận lối chữ này.

(Vương Khắc Ngữ (tóm lược và tổng hợp)

Thứ Hai, 30 tháng 1, 2012

VÀI CẢM NHẬN VỀ ĐỨC TIN KITÔ GIÁO CỦA ANH CHỊ EM DÂN TỘC ÍT NGƯỜI TÂY NGUYÊN

                                                                                                               Hồ Công Hưng


Kể từ ngày (28.12.1853) Giuse H’mur, người dân tộc trưởng thành đầu tiên được cha thừa sai Combes rửa tội tại làng Bahnar Kon K’Xâm bên bờ sông Đakbla (Kontum), số Kitô hữu người bản địa Tây Nguyên không ngừng gia tăng. Năm 1932, khi Giáo Phận Kontum được thành lập bao gồm các tỉnh Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột và Attopeu (Lào), số tín hữu người dân tộc đã gần 19.000 so với khoảng 6.000 giáo dân Kinh[1] và đến nay con số đó đã lên hàng trăm ngàn ở riêng hai tỉnh Kontum và Gia Lai, chưa kể các tỉnh khác của Tây Nguyên và các vùng có người dân tộc sinh sống, và không kể con số đông Kitô hữu Tin Lành cũng tăng lên nhanh chóng những năm gần đây. Theo lời Linh Mục Trần Sĩ Tín, trong Sứ Vụ Gia Rai, vào thập niên cuối của thế kỷ qua, nghĩa là từ năm tuyên phong các thánh tử đạo Việt Nam 1988, “bỗng nhiên tất cả các dân tộc ít người trên đất nước Việt Nam đều đứng lên tìm theo Chúa”[2]. Hành trình đi tìm Chúa của bà con vùng cao này đã gặp muôn vàn khó khăn thử thách do những xáo trộn xã hội phát sinh từ sự đột biến dân số cũng như do sự e ngại và đố kị của quyền lực. Con số đông tín hữu người dân tộc thiểu số không những đã làm cho Giáo Hội Việt Nam phát triển mà còn đem lại sức sống tươi trẻ và sắc thái độc đáo cho đức tin Kitô giáo của chúng ta. Những ai từng tiếp cận các tín hữu người dân tộc và tìm hiểu đời sống đức tin của họ, đều cảm nhận được những giá trị Tin Mừng trong môi trường văn hóa đặc thù như một sự chuẩn bị của Chúa Thánh Thần cho những con người hèn mọn nghèo khổ đón nhận Ơn Cứu Độ. Và thiết nghĩ đã đến lúc phải trả lại sự thật và công bằng cho những người anh em thấp cổ bé miệng này.

1. ‘Hạt giống Cựu Ước’ đã được gieo từ lâu trong lịch sử và văn hóa Tây Nguyên
Cách đây trên 150 năm, những người giáo dân Kinh từ duyên hải miền Trung được thầy sáu Nguyễn Do (1823-1872) đưa lên Kontum cùng các vị thừa sai là cộng đồng người Việt đầu tiên sống giữa rừng núi hoang vu và giữa đa số đồng bào các dân tộc Bahnar, Jarai, Xêđang... còn bán khai. Và một khi đã đặt chân lên xứ Thượng, họ cũng không bao giờ có cơ hội trở lại quê cũ do giao thông quá cách trở. Vì thế nỗi lo đánh mất bản sắc dân tộc của mình đã làm cho họ cố giữ những phong tục tập quán của tổ tiên, đồng thời có thái độ tự tôn của những người ‘văn minh’ đi khai hóa và đem ‘đạo thật’ cho những kẻ man di mọi rợ. Tiếc rằng, sau Công Đồng Vatican II nửa thế kỷ, thái độ coi thường thậm chí miệt thị đối với những người anh em đồng đạo người dân tộc vẫn tồn tại nơi một số giáo dân Kinh. Thật ra, từ lâu lắm rồi Thiên Chúa đã hiện diện với cư dân bản địa Tây Nguyên trong nền văn hóa ngàn đời của họ và Ngài đã yêu thương họ[3], chuẩn bị cho họ đón nhận Tin Mừng Cứu độ... Bản chất người dân tộc là con người tôn giáo, luôn cảm nhận quyền lực của thần linh (Yang): thần linh có mặt khắp nơi, thấu hiểu mọi sự, có khả năng chi phối đời sống con người và vạn vật.
Đầu tháng 8 năm 1955, Linh Mục Jacques Dournes, vị thừa sai đầu tiên được gửi đến miền Jarai tại một làng dân tộc giữa rừng già Cheo Reo. Khi tự mày mò học tiếng nói và tìm hiểu phong tục tập quán ở đây, nhà truyền giáo người Pháp này đã khám phá ra trong nền văn hóa bản địa độc đáo nhiều nét gợi lại việc Thiên Chúa chuẩn bị cho người Do Thái trong Cựu Ước đón nhận Ơn Cứu Độ. Trong cuốn sách nổi tiếng “Thiên Chúa Yêu Thương Dân Ngoại”, ông đã thừa nhận: “Càng tìm hiểu môi trường này, tôi càng cảm thấy bất lực không thay đổi được gì. Đưa họ trở lại đạo là việc của Chúa còn việc của tôi là để cho Người rộng đường hành động”[4]. Các vị thừa sai sau này cũng đã ví lịch sử và văn hóa của đồng bào Tây Nguyên như thời Cựu Ước của dân Do Thái xưa.
Cô Nguyễn Thị Diễm Ly, một giáo dân gốc Huế, từng sống cùng với cộng đồng Jarai ở Chư Sê (Gia Lai) một thời gian dài trên 10 năm, đã nghiên cứu và trình bày mối liên hệ giữa một số phong tục của đồng bào Jarai với các phép bí tích của đạo Công Giáo (như Thanh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể, Hòa Giải, Truyền Chức v.v.) trong luận văn thạc sĩ của mình tại Viện Xã Hội Học Á Châu, Manila, Philippines[5]. Chỉ xin đơn cử mối tương đồng về ý nghĩa giữa “Phép Dìm” (xuống nước) với Bí Tích Thanh Tẩy: Người Jarai “dìm nước” để xóa bỏ tội lỗi, để tẩy uế và để minh oan. Do mối tương đồng đó mà các thừa sai miền Jarai giữ lại nghi thức “dìm nước” khi cử hành lễ nhập đạo cho các tín hữu người dân tộc Tây Nguyên để giúp cho họ cảm nhận được dễ dàng ơn tái sinh làm con cái Chúa, có thể nói hơn cha ông người Kinh chúng ta xưa kia.
Chính nền văn hóa do cha ông để lại là con đường dẫn dắt đồng bào dân tộc đến gặp Chúa và đón nhận Chúa là người Cha từng yêu thương họ mà họ chưa được biết. Và khi gặp Chúa, họ thêm lòng tự hào về nền văn hóa của mình và tìm được hạnh phúc trong niềm tin mới dù cuộc sống hằng ngày có vất vả trăm bề.

2. Sức mạnh tiềm ẩn của con người tâm linh khi ngọn bếp lửa bùng lên
“Những con người tưởng chừng chỉ hành động vì miếng ăn thường nhật này, còn có những mối lo toan và một tư tưởng cao lớn hơn nhiều, khi ngọn lửa trong bếp bùng cháy”[6]. Nhìn cảnh các em bé Thượng đeo chiếc gùi nặng trĩu từ tờ mờ sáng lủi thủi đi theo mẹ ra chợ bán từng bó rau má, đọt bí ngô để kiếm năm, mười ngàn hay người thanh niên đen đủi lưng trần đứng trên chiếc thuyền độc mộc vãi lưới cả buổi trời trên khắp mặt sông Đak Bla để bắt chút ít cá tép cho bữa cơm đạm bạc hằng ngày..., nhiều người nghĩ đơn giản đồng bào Tây Nguyên chỉ biết vất vả với cái ăn, cái mặc tầm thường, có lẽ không khác bao nhiêu con gà bươi móc trong vườn tìm hạt đậu hạt lúa để sống. Nhưng những kẻ đó lại trở thành con người khác khi màn đêm buông xuống, khi ngọn lửa bếp bùng lên, lúc mà công việc nương rẫy đã chấm dứt, trâu bò về chuồng, trẻ con đã ngon giấc... và bên ngoài căn nhà sàn là bóng đêm đen bao phủ núi rừng, nơi dường như đang có những thế lực rình rập hãm hại con người. Còn bên trong nhà sàn, ngọn lửa bếp bùng cháy rọi những bóng người chập chờn trên vách phên. Chính trong không gian này, một con người khác nơi đồng bào dân tộc, con người tâm linh đã trỗi dậy khi già trẻ nam nữ quây quần quanh bếp lửa nghe kể khàn, một thứ sử thi đầy huyền thoại của cái thời u u minh minh xa xưa. Nói đúng hơn, họ không chỉ nghe mà còn sống kết hợp thật sự với nội dung của câu truyện được một người già kể bằng một giọng đều đều từ đêm này qua đêm khác...
Trong môi trường tâm linh như thế và với cuộc sống an phận, không bon chen, tranh giành lợi lộc thế gian, khi được đón nhận Lời Chúa, những người anh em dân tộc cũng dễ dàng tin và sống Lời Chúa hơn người văn minh chúng ta nhiều. Cũng như đối với những con người hoàn toàn vô sản này thì mầu nhiệm Nước Trời của Tin Mừng có một ý nghĩa rất sâu sắc và đem lại cho họ niềm hy vọng vô cùng lớn lao. “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12, 32). Từ đó chúng ta mới hiểu được vì sao những anh chị em tín hữu ở các làng xa trong rừng núi vẫn có thể giữ vững niềm tin của mình, dù có gặp rất nhiều khó khăn trở ngại. Đặc biệt đồng bào dân tộc theo đạo Tin Lành, trong mấy mươi năm không thấy bóng dáng vị mục sư nào, nhưng vẫn một lòng tin Chúa và luôn tuân thủ các lề luật khắt khe đôi khi trái với tập quán lâu năm của mình như không hút thuốc, uống rượu v.v.
3. Những hình ảnh gợi nhớ các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội
Tại Tây Nguyên, trong một thời gian dài, người dân bản địa chỉ biết có cộng đồng làng (plei,buôn). Vì thế giữa những thành viên cùng một làng, luôn có mối quan hệ gắn kết hầu như huyếtthống. Khi có ai đó mổ thịt một con dê, con heo hay con bò thì người ta chia thịt thành từng phần đủ cho tất cả dân làng, còn phần người chủ không lớn hơn bao nhiêu. “Không ai bị quên trong cuộc chia phần thân ái đó và, từ đứa trẻ còn bú vú mẹ cho đến người già đáng kính nhất đều có phần bằng nhau” (7). Các trẻ em ngay từ nhỏ cũng đã được rèn luyện theo tinh thần cộng đồng như thế...
Phải chăng đó là lòng bác ái của cộng đoàn tín hữu Kitô giáo đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội? Khi dân làng theo đạo Chúa thì lòng bác ái đó được nâng lên cao hơn theo đúng Tin Mừng của Chúa. Trong các làng này, đặc biệt ở vùng dân tộc Bahnar, đến mùa giáp hạt, khi thấy nhà nào sáng sớm không có người giã gạo trên hiên nhà sàn, có nghĩa là nhà đó đã hết gạo ăn, thế là các gia đình khác đem chia sẻ phần gạo của mình.
Trong công cuộc truyền giáo tại Tây Nguyên, số linh mục, tu sĩ quá ít như các tông đồ và môn đệ của Chúa xưa kia, nên từ cộng đoàn xuất hiện nhiều người, nam hay nữ, tham gia công việc chung một cách tự nhiên, không mang danh nghĩa nào, cũng không được ai chỉ định hay bầu bán. Họ là những người mù chữ, cảm nghiệm được Lời Chúa nên đứng lên hướng dẫn cầu nguyện và chia sẻ Lời Chúa, có người còn sáng tác những bài thánh ca theo âm điệu Tây Nguyên bằng những lời tâm tình làm kinh ngạc các thừa sai từng giảng dạy họ. Họ sống như những tín hữu thời sơ khai của Giáo Hội, luôn sẵn sàng can đảm làm chứng cho đức tin của mình. Còn tại các làng theo đạo lâu năm, nằm sâu trong rừng núi, linh mục không được phép lui tới, bà con vẫn tiếp tục giữ vững đức tin cũng nhờ các giáo dân được cộng đoàn tín nhiệm để hướng dẫn mọi sinh hoạt tôn giáo trong làng.
Trong những năm khó khăn, trước những ngày lễ trọng như Giáng Sinh, Phục Sinh, Hiện Xuống v.v., từ các làng ở xa không thể có lễ, bà con tín hữu, vợ chồng con cái, già trẻ lớn bé, từng đoàn kéo nhau đi bộ về Nhà Thờ Chính Tòa như đi trẩy hội, mặc cho sự đe dọa, ngăn cản của quyền lực. Họ thực hiện cuộc hành hương về nhà Cha chung để xưng tội, tham dự canh thức và thánh lễ, tương tự hình ảnh những người Do Thái xưa cùng đi về Đền Thánh Giêrusalem, được ghi lại trong Kinh Thánh.
Còn trong những dịp lễ đặc biệt, các tín hữu thuộc mọi dân tộc từ nhiều buôn làng tề tựu về tham dự thánh lễ bằng 4 thứ tiếng (Kinh, Bahnar, Jarai, Xơđang) với tiếng cồng chiêng, một thánh lễ gợi nhớ Ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trong Công Vụ Tông Đồ.

4. Thiên Chúa đã làm nhiều việc lạ lùng chứng tỏ lòng yêu thương của Ngài
“Lạy Cha là Chúa Tể Trời Đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Mt 11, 25). Trong “Sứ vụ Jarai, khi nhắc đến hiện tượng người dân tộc ít người đứng lên tìm Chúa, Linh Mục Trần Sỹ Tín khiêm tốn thừa nhận: “Xin đừng gán cho chúng tôi công cuộc trở lại này! Chúng tôi chỉ quen biết có hai ba làng ở gần chúng tôi thôi, chứ không phải 89 làng có người đến với chúng tôi như bây giờ. Mà những người ở gần chúng tôi lại trở lại chậm và ít hơn những người ở xa! Lại còn phía Chereo-Tơlui có cả 150 làng, cũng chừng đó phía Pleiku, Măng Yang, Chư Prong, Chư Pah... Chúng tôi đâu có biết người Khơmer, người Stiêng, Monong, Raglai, Churu, Eđê phía Nam, người Chăm, người Bahnar, Xơđang, Jeh, Bru... chúng tôi đâu có biết người Mường, người Homông... phía Bắc! Ấy thế mà họ đều đứng lên tìm Chúa, tìm đạo!”[8].
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Số linh mục ở Tây Nguyên quá ít, các làng lại rải rác trênmột diện tích quá rộng và đường giao thông lại rất khó khăn, đặc biệt trong mùa mưa, công việc truyền giáo đã được sự tiếp sức nhiệt tình của các tân tòng người dân tộc. Những người anh em tín hữu nghèo khổ ít học này đã trở nên công cụ tuyệt vời của Chúa Thánh Thần là Đấng được Giáo Hội tôn vinh là “Cha những kẻ nghèo hèn” (Pater pauperum). Ngài đã chọn dùng những kẻ nghèo hèn để làm một việc lớn là loan báo Tin Mừng Cứu độ cho những kẻ nghèo hèn.
Cũng như cách đây hơn một thế kỷ, để có người tiếp tay phục vụ dân Chúa, Linh Mục Martial Jannin, sau này trở thành vị giám mục tiên khởi (1933-1940) Giáo Phận Kontum, đã có sáng kiến thành lập trường đào tạo các Yao Phu. Đây là một mô hình độc đáo của miền truyền giáo Tây Nguyên và công trình của Chúa Thánh Thần. Lý do Cha Jannin đưa ra là công cuộc truyền giáo ở đây cần có một đội ngũ cộng tác viên người dân tộc: họ dễ dàng gần gũi và giao tiếp với đồng bào họ hơn các thừa sai ngoại quốc hay người Kinh[9].
Sáng kiến đó đã gặp nhiều sự phản đối vì cho là không tưởng. Làm sao đưa con em người dân tộc vốn thích sống tự do từ trong rừng sâu đem về “nhốt” trong một trường nội trú với đủ thứ luật lệ gò bó và thúc ép phải học hành? Rồi trường Kuénot đã được hình thành năm 1905 và cho đến năm 1975, đã đào tạo hàng ngàn Yao Phu,. Sau khi tốt nghiệp, họ trở về làng cũ, lập gia đình và sống giữa bà con như một người dân bình thường. Trong những năm chiến tranh ác liệt cũng như trong thời gian khó khăn nhất, hàng giáo sĩ mới thấy được đội ngũ Yao Phu nhiệt thành và trung kiên là một hồng ân lớn lao Chúa ban cho miền Tây Nguyên để giữ gìn đức tin của những đồng bào dân tộc hèn mọn nghèo khổ.
Nghe và đọc các chứng từ rất mộc mạc mà sống động của nhiều tín hữu người dân tộc[10], chúng ta thấy Thiên Chúa tiếp tục làm những điều lạ lùng để chứng tỏ Ngài yêu thương con cái của Ngài. Đức tin của người Kinh chúng ta thường quá duy lý, coi những phép lạ Chúa làm như là những chuyện của thời xa xưa trong Kinh Thánh mà quên rằng quyền năng của Chúa luôn thể hiện cho những kẻ thật sự tin Ngài. Bởi vì đối với người dân tộc đơn sơ chất phát, tin theo Chúa là ký thác hoàn toàn vào lòng yêu thương của Chúa. Trong mọi hoàn cảnh khó khăn tuyệt vọng (đau yếu bệnh tật, thiếu thốn...) họ đều trông cậy nơi Chúa bằng lời cầu nguyện: cả nhà cầu nguyện, cả xóm cầu nguyện, cả làng cầu nguyện và Chúa đã ra tay ban cho họ nhiều ơn lạ lùng. “Có phúc vì tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói” (Lc 1, 4).

5. “Chúng mình đều là con cái Chúa hết mà!”
Trong cuộc hội thảo “Sống Đạo Theo Cung Cách Việt Nam” do Ủy Ban Giám Mục Đặc Trách Giáo Dân tổ chức tại Huế tháng 4.2004, đoàn Giáo phận Kontum giới thiệu chứng từ của một số tín hữu người dân tộc, trong đó có ông Pêtrô Tơch, xuất thân từ trường Cuénot, Yao Phu làng Mang La, xã Ngọc Bày (Kontum). Khi biết ông có đứa con trai đầu lòng lên là Pierre Tis đang là linh mục phụ trách một giáo xứ ở ngoại ô Paris (Pháp), nhiều nữ tu đến chào và chúc mừng “ông cố”. Ông Tếch đã đáp lại theo kiểu người dân tộc: “cố, cố, cái gì? chúng mình là con cái Chúa hết mà!” Âu cũng là bài học cho nhiều “ông cố”, “bà cố” thích được tôn vinh trước người đời mà không nghĩ rằng ơn được gọi làm linh mục, tu sĩ chỉ có thể là hồng ân Chúa ban cho.
Theo tín ngưỡng cổ truyền của hầu hết các cư dân bản địa Tây Nguyên, có một Đấng Tối Cao, nhân từ, vĩnh hằng, là tinh thần thuần túy, đứng trên các Yang, được gọi là Ndu hay Ae Die... Con người không được phép kêu tên Ngài, không thể trực tiếp cầu khấn với Ngài[11]. Đồng thời, các dân tộc Tây Nguyên cũng đều có tập tục “kết nghĩa cha (mẹ) con” (krao bă (mẽ) kon) được thực hiện bằng nhiều nghi thức khác nhau tùy theo bộ tộc nhưng bao giờ cũng có rượu và máu của con vật hiến tế (heo, dê, gà...). Đó là một giao ước liên kết hai người một cách bền vững như huyết thống. Khi trở thành Kitô hữu, người dân tộc hiểu mình được kết nghĩa cha con với Thiên Chúa, cũng là Đấng Tối Cao, nhân từ, vĩnh hằng và nhờ sự kết nghĩa đó con người dù hèn mọn nghèo khổ cũng được gọi Ngài là Cha và cầu xin với Ngài điều mình cần giúp. Vì thế các tín hữu người dân tộc cảm nhận một cách sâu sắc ân huệ lớn lao được làm con cái Chúa và mọi người thuộc các dân tộc đều là anh em một Cha trên Trời, kể cả người Kinh (der Yoan) là những kẻ mà người dân tộc thường rất e ngại. Kinh Lạy Cha mà họ đọc “Ớ Bă nhôn ma we tơ plenh”, là nguồn động lực củng cố niềm tin của họ, đặc biệt trong các thánh lễ có nhiều đoàn tín hữu từ khắp nơi tham dự.
Trước đây, đồi núi và sông suối ngăn cách làng này với làng khác khiến các bộ tộc sống gần như cô lập, tạo nên nhiều phương ngữ đa tạp, có khi dân hai làng cùng một bộ tộc nhưng lại không hiểu nhau. Ngày nay, đường giao thông dễ dàng giúp tạo nên sự giao tiếp rộng rãi giữa nhiều thành phần dân tộc. Các cuộc hành hương hay đại hội như La Vang, Thánh Thể... qui tụ đông đảo giáo dân từ nhiều miền của đất nước là dịp rất tốt thể hiện tình hiệp thông giữa các con cái Chúa, có tác động mạnh mẽ đối với đức tin của những tín hữu người dân tộc tham dự và có ảnh hưởng đến cả các cộng đoàn trong các buôn làng xa xôi hẻo lánh.

6. “Thuốc phiện” của đồng bào dân tộc hay sự nhẫn nhục cam chịu vì Nước Trời?
Theo Karl Marx, “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” vì tôn giáo ru ngủ các tín đồ bằng cách dạy họ phải biết cam chịu những bất công ở đời này để được hưởng hạnh phúc đời sau. Thiết nghĩ điều này cũng đúng một phần đối với đa số đồng bào dân tộc Tây Nguyên, bởi vì hơn bao giờ hết, người bản địa Tây Nguyên đang phải chịu thân phận nghèo khổ, nạn nhân của nhiều bất công xã hội. Người dân Jarai ngày nay thường than thở: “Lon ta abih rai, dlai ta abih ram, gơnam-tam abih rơngă!” (Đất tàn, rừng nát, của cải tiêu tan). Rừng, nguồn cung ứng cho mọi nhu cầu vật chất cũng như tinh thần, bị tàn phá vô tội vạ, đất đai màu mỡ bị thu hẹp do việc mở rộng các nông trường, quyền sở hữu của cộng đồng làng không được thừa nhận[12]. Chưa hết, buồng chuối, luống khoai hay rẫy bắp của bà con đến ngày thu hoạch có thể bị đám người di dân từ đâu đến lấy mất ban đêm mà không biết kêu ca kiện cáo với ai được. Con bò nuôi thả ven rừng, cũng có thể bị kẻ xấu dắt vào rừng xẻ thịt bỏ bao chở đi bán không biết chừng. Đó là chưa kể đến nhiều vụ trao đổi mua bán lừa đảo lớn nhỏ mà người dân tộc bao giờ cũng là nạn nhân. Thân phận thấp cổ bé miệng đó đã làm cho đồng bào dân tộc đành phải sống cam chịu. Chính trong hoàn cảnh đó, người dân tộc tin theo Chúa, cảm nhận được tình thương của Chúa, dù mình nhỏ bé hèn mọn bị bỏ rơi. Những người dân tộc mắc bệnh cùi bị đuổi vào rừng sâu, nằm co rút trơ trọi trong căn chòi lá rách nát, cũng tìm được niềm an ủi vì tin rằng Chúa yêu thương mình và sẽ thực hiện lời Ngài hứa: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an... Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ...” (Mt 5, 1). Hoàng đế Napoléon từng coi tôn giáo là phương tiện giúp ổn định xã hội, vì người dân sợ làm điều ác trái với đạo, cũng giống như ở phương Đông dân gian có quan niệm sống ăn ngay ở lành làm phước để đức cho con cháu. Còn đồng bào dân tộc tin Chúa nên nhẫn nhục cam chịu mọi bất công vì Nước Trời. Vì thế cho rằng tôn giáo là nguyên nhân gây ra những biến động xã hội ở Tây Nguyên là luận điệu tuyên truyền dường như không thuyết phục được ai. Thiết nghĩ các kẻ không tin tưởng gì hết vào đời sau mới là những người đang đục khoét phá hoại đất nước này hơn ai hết.

Thay lời kết:
Xin trả lại sự thật và công bằng cho niềm tin của các dân tộc Tây Nguyên
Trên đây chỉ là vài nét phác họa sơ sài về đời sống đức tin của những anh chị em dân tộc Tây Nguyên, nhưng có lẽ cũng đủ cho những người Kinh chúng ta suy nghĩ về niềm tin của bản thân mình. Nói theo từ ngữ dễ hiểu của người dân tộc, “trong trường học của Chúa Kitô”, theo “thang chấm điểm” (barème) của Người, khác xa cách đánh giá của loài người chúng ta, có lẽ các tín hữu người dân tộc ở trên chúng ta một hai bậc, là đàn anh đàn chị của chúng ta về mặt đức tin. Theo ghi nhận của các thừa sai miền Jarai, trong các buổi chia sẻ Lời Chúa, có cả giáo dân Kinh tham dự, người hướng dẫn tự phát thường không phải là ông bà “đạo gốc”, “đạo dòng”, mà là một tân tòng Jarai nghèo khổ ít học. Trong tinh thần đó, chúng ta không ngạc nhiên khi một thánh nữ ít tuổi đời và học hành không bao nhiêu như Têrêsa Hài Đồng, lại được tôn vinh là Tiến sĩ Hội Thánh và Bổn Mạng các nhà truyền giáo.
Đối với những người cầm quyền cai trị, thiết nghĩ cũng đến lúc trả lại sự thật và công bằng cho niềm tin tôn giáo của đồng bào dân tộc chúng ta ở miền rừng núi. Niềm tin đó không thể mua chuộc bằng của cải vật chất, lại càng không thể áp đặt bằng quyền lực, bởi vì thứ đức tin như thế không thể bền vững lâu dài. Ai cũng biết, niềm tin tôn giáo là quyền thiêng liêng của mỗi người mà pháp luật ở đâu cũng phải tôn trọng và bảo vệ. Và kẻ đáng bảo vệ trước nhất phải là những người yếu đuối bị thiệt thòi hơn hết. Hy vọng đã qua rồi cái thời mà trong dịp lễ Giáng Sinh, các nhà thờ ở các thành phố lớn được khuyến khích trang hoàng đèn hoa rực rỡ trong khi tại các làng hẻo lánh trong rừng núi, tín hữu người dân tộc lại bị ngăn chặn cấm cản không cho đi dự lễ.
Xin đừng quên, trong tâm thức đơn sơ chất phác của người dân tộc, chỉ có ma qủy mới tìm mọi cách ngăn chặn họ theo đạo Chúa, một đạo giúp họ sống kết hợp với Thần Thánh, ăn ở tốt hơn với đồng loại, biết nhớ ơn ông bà tổ tiên, luôn cố gắng giữ gìn và truyền lại cho con cháu tinh hoa văn hóa cha ông để lại.
Chúng ta đã có Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo, các học giả ở đó có thừa khả năng và đầy đủ phương tiện tìm hiểu thấu đáo và trung thực đức tin của đồng bào dân tộc cũng như công cuộc truyền giáo Tây Nguyên để trước hết không còn có những cuốn sách viết về Tây Nguyên với cách suy diễn vô căn cứ xúc phạm nặng nề đến niềm tin của đồng bào dân tộc. Thứ đến và quan trọng hơn, để giúp cho những người hoạch định chính sách tôn giáo đối với miền Tây Nguyên có được cái nhìn công bằng và hợp với sự thật hơn. 
__________________________
[1]     Theo số liệu “Đường Truyền Giáo Tây Nguyên, 1848-1998”, Giáo Phận Kontum phát hành 1998.
[2]     35 năm Sứ Vụ Gia Rai, DCCT-VN, 10.1969-10.2004, tr.7.
[3]     Xem Jacques Dourn Dieu aime les paiens (Thiên Chúa Yêu Thương Dân Ngoại), NXB Aubier, Paris 1963 .
[4]     Sách nói trên, tr. 59.
[5]     “Cultural Recovery and Development Work as a Process of Self-Empowerment among Jarai people in Chưsê”. Manila 7.2003.
[6]     Jacques Dourn Populations montagnardes du Sud-Indochinois (1950), bản dịch “Miền Đất Huyền Ảo” của Nguyên Ngọc, NXB Hội Nhà Văn, 2003, tr. 410.
[7]     Sách vừa dẫn, tr. 78
[8]     Sứ vụ Jarai, tr. 7-8
[9]     Xem tham luận của Lm Nguyễn Văn Thượng “Bôl Yao Phu Giáo Phận Kontum, Công trình của Chúa Thánh Thần” trong Hội thảo “Sống Đạo Theo Cung Cách Việt Nam”, 2004 tại Huế.
[10]    Tài liệu hội thảo “Sống Đạo Theo Cung Cách Việt Nam”, 2004, tr. 177-196.
[11]    Miền Đất Huyền Ảo”, tr. 317-318.
[12]    Sứ vụ Jarai, tr. 121.