Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014

LỊCH SỬ, Ý NGHĨA VÀ LÒNG TÔN KÍNH ĐỨC MẸ TRONG THÁNG NĂM



LỊCH SỬ, Ý NGHĨA VÀ LÒNG TÔN KÍNH ĐỨC MẸ 
TRONG THÁNG NĂM 



Có lẽ, không một ai trên Đất Việt là người Công Giáo mà lại không biết đến tháng Năm là tháng Hoa dâng kính Mẹ. Thật vậy, sinh hoạt tôn giáo tại các giáo xứ từ Bắc –Trung –Nam, cứ mỗi dịp tháng Năm về, ấy là lúc muôn con tim dạo rực hướng về Mẹ Maria như một ngọn hải đăng để tỏ lòng tôn kính, mến yêu. 

Trong số vô vàn cách tỏ bày lòng tôn kính đối với Đức Mẹ nơi con dân Nước Việt, thì lòng đạo đức bình dân như: dâng hoa kính mẹ; rước kiệu Mẹ; lần chuỗi Mân Côi; rồi những bài thánh ca hết sức dễ thương được cất lên để ton vinh Mẹ là Nữ Hoàng Thiên Quốc. 

Cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào tháng Hoa. Tháng Hoa đối với Giáo Hội Công Giáo mang một ý nghĩa đặc biệt vì nó được dành riêng để tôn vinh Mẹ Chúa Trời. 

Trước tiên, xin được khởi đi từ lịch sử của tháng Hoa, để thấy được diễn tiến của Giáo Hội trong việc sùng kính này.

1. Gốc tích tháng Hoa

Mới đây, dịp phong thánh cho hai vị Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 vừa qua tại Rôma, qua màn hình trực tiếp, chúng ta đều thấy thời tiết không còn lạnh lắm qua cách ăn mặc của người dân khắp nơi đổ về. Thời tiết lúc này bên Rôma cũng giống như khí tiết của Việt Nam tại các vùng Bắc Bộ. Khí hậu lúc này không còn rét đậm rét hại, cái rét mà nhiều người diễn tả: “rét cắt da cắt thịt”. Vì thế, cây cối trơ trụi và không phát triển là bao. 

Từ những nét đặc trưng của khí hậu như thế, nên ngay từ những thế kỷ đầu, tại Rôma, thời điểm này, người ta tôn kính sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên, bằng những cuộc rước linh đình để tôn kính Hoa là nữ thần của mùa Xuân. 

Người Công Giáo thời điểm đó đã tôn giáo hóa ý nghĩa này và thánh hóa tập tục đó bằng cách rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng tốt tươi...

Ở nhiều nơi, người ta rước những cành lá có nụ, có hoa ở đầu cành, gọi là “Rước xanh”. Những cành hoa, lá, được đưa về nhà thờ trang trí và nhất là nơi ngai tòa Mẹ Maria. 

Đối với các nghệ nhân, thì họ đua nhau điêu khắc hay vẽ những bông hoa thật đẹp để tôn lên vẻ đẹp kiều mỹ của Mẹ trên các bức tranh hay trên vách tường...

Còn các nghệ sĩ thì sáng tác những bài hát mang đượm lòng tôn kính. Các bài giảng về Mẹ cũng được soạn ra để cùng nhau sử dụng hầu bày tỏ lòng tôn kính. 

Đến thế kỷ 14, linh mục Henri Suzo dòng Đaminh, vào ngày đầu tháng 5, đã khởi xướng việc trang hoàng hoa muôn sắc chung quanh tượng Mẹ. 

Còn thánh Philiphê Nêri, vào ngày 01 tháng 05, đã quy tụ các trẻ em lại quanh bàn thờ Mẹ, và hướng dẫn các em dâng lên Mẹ những bông hoa tươi sắc. Ngài cũng dâng lên Mẹ những đóa hoa lòng còn trong trắng đơn sơ để Mẹ dìu dắt các em.

Sang thế kỷ thứ 17, việc dâng hoa kính Mẹ được cử hành trong toàn dòng các nữ tu kín Clara. Mỗi chiều đều vang lên những bài hát kính Đức Mẹ. Từ đó, dần dần được lan rộng ra bên ngoài nơi các xứ đạo lân cận.

Đầu thế kỷ 19, việc tôn kính Mẹ được lan rộng nhiều nơi. Các nhà giảng thuyết đã có những bài giảng suất sắc về Mẹ. Linh mục Chardon là người có công nhiều nhất trong việc phổ biến lòng đạo đức này. Thời điểm trên, lòng tôn kính Mẹ được cử hành rầm rộ nhất là tại nước Pháp và một số nước lân cận.

Các Đức Thánh Cha được coi là gắn bó đặc biệt với Đức Mẹ, đó là: Đức Thánh Cha Piô VII, đã cổ võ việc sùng kính Mẹ vào tháng Năm. Đức Piô IX đã ban ơn toàn xá cho những ai tham dự việc đạo đức này. Và, đến thời Đức Piô XII, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, đã thêm vào và có tính khuyến khích cao: “Việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo Hội công nhận và cổ võ”.

Đầu thế kỷ 20, Tông huấn về việc tôn kính Đức Mẹ được Đức Phaolô VI ban hành, trong đó có đoạn viết: “Tháng Năm là tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ. Đó là dịp để bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công Giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng. Trong tháng này, các kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ những tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt. Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai toà rất dồi dào của Đức Mẹ” (Tông huấn về việc tôn kính Đức Mẹ, số 1). 

Tháng 10 năm 2002, chuẩn bị mừng 25 năm Giáo Hoàng của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngài gửi đến mọi thành phần dân Chúa bức Tông thư “Kinh Rất Thánh Mân Côi” về Kinh Mân Côi, lặp lại xác tín và lòng yêu mến Đức Mẹ. Và dịp Khánh Nhật Truyền Giáo năm 2003, ngài chỉ muốn nhắc lại xác tín này là “Hãy cùng với Đức Maria mà chiêm ngắm, bước theo và sinh Chúa Giêsu cho những người đồng thời với mình”. 

Ngài cũng đã viết hai văn kiện lớn về Đức Mẹ:

- Thông điệp “Mẹ Đấng Cứu Độ”, công bố ngày 25.3.1987, để chuẩn bị Năm thánh Mẫu, bắt đầu từ lễ Hiện Xuống năm 1987 và bế mạc ngày lễ Mông Triệu năm 1988.

- Tông thư “Kinh Rất Thánh Mân Côi”, công bố ngày 16.3.2002. 

Chính ngài đã thêm vào Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng và công bố Năm Mân Côi (từ tháng 10.2002 đến tháng 10.2003).

Như thế, việc tôn sùng Đức Mẹ không tách rời mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa, mà Mẹ được ví như máng chuyển ơn của Người xuống cho nhân loại. 

Lược qua một chút về lịch sử tháng Hoa, cũng như những hướng dẫn về lòng tôn sùng Đức Mẹ, chúng ta cùng tiếp tục tìm hiểu thêm về ý nghĩa của tháng này.

2. Ý nghĩa của tháng Hoa

Mẹ Maria cũng được ví như Người Nữ tuyệt vời, đẹp nhất trong muôn ngàn phụ nữ, Mẹ đẹp tâm hồn, Mẹ đẹp thân xác. Vì thế, nơi hoa tỏa ra mùi thơm ngào ngạt, tượng trung cho các nhân đức nơi Mẹ. Đồng thời, những sắc màu của hoa tượng trưng cho Mẹ là Mẹ muôn loài khi đón nhận vai trò làm Mẹ Thiên Chúa. 

Đức Mẹ còn được ví như Hòm Bia của Thiên Chúa, mà hoa lại là vật được dùng để trang trí cho Hòm Bia Giao Ước thời Cựu Ước. Như thế, Đức Mẹ luôn ở bên Thiên Chúa. Và hoa lại ở bên Mẹ...!

Hẳn chúng ta còn nhớ, trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã truyền lệnh cho Môsê làm những nụ và cánh hoa để trang trí nơi cây đèn 7 ngọn đặt trước Hòm Bia Giao Ước. Hay như Salomon, ông đã ra lệnh cho nghệ nhân điêu khắc những cánh hoa bên trong và bên ngoài để trang trí nơi Cực Thánh trong đền thờ.

Bắt nguồn từ đó, hoa trong phụng vụ hay truyền thống của người Công Giáo luôn được coi trọng. Nó được dùng để trang hoàng cung thánh, bàn thờ hay để tỏ lòng tôn kính với các vị thánh, đặc biệt là Đức Mẹ. Tức là hoa được dùng vào vị trí trang trọng trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội. 

Mẹ Maria được ví như bông hoa thơm ngát trước tòa Chúa, nhưng trước đó Mẹ cũng là những con người rất đỗi bình thường như bao người phụ nữ khác. Tuy nhiên, được Thiên Chúa tuyển chọn, và qua tiếng “Xin Vâng” nên Mẹ đã trở nên tuyệt mỹ hơn muôn ngàn phụ nữ. Mẹ đã trở nên đóa hoa thơm ngát trước Ngai Thiên Chúa. Mẹ đã trở nên đóa hoa độc nhất vô nhị của thế giới loài người. Tại sao lại như thế, thưa chỉ vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và như một sự tất yếu, Mẹ là Mẹ loài người.

Nhờ ơn Chúa, Mẹ đã trở nên đóa hoa kiệt tác như: ơn vô nhiễm nguyên tội, ơn đồng trinh trọn đời, Mẹ Thiên Chúa, Hồn xác lên trời và Mẹ như “hoa hường mầu nhiệm vậy”.

3. Ý nghĩa của việc dâng Hoa kính Mẹ

Tại sao lại dâng hoa mà không dâng những thứ khác? Thưa! Rất đơn giản, vì hoa là thứ đẹp nhất trong mọi loài Chúa dựng nên, chẳng thế mà Đức Giêsu đã ví sự lộng lẫy, tươi đẹp của hoa còn hơn cả vua Salomon: “Chúng con hãy xem hoa huệ ngoài đồng. Chúng không canh cửa, không xe dệt, thế mà Thầy bảo cho chúng con biết, ngay cả Vua Salômôn dù vinh hoa tột bậc, cũng không thể mặc đẹp bằng một bông hoa ấy”.

Các nhà thờ thường hay tổ chức dâng hoa kính Mẹ, lúc này, mỗi màu hoa lại tượng trung cho một nỗi lòng của con cái muốn dâng lên Mẹ, hay ca ngợi một nhân đức nào đó của Mẹ. Như vậy, Hoa biểu trưng cho lòng Mẹ và cũng là biểu trưng của lòng con người:

Hoa huệ trắng biểu trưng sự trong sạch khiết trinh nơi Mẹ;

Hoa hồng diễn tả lòng mến nồng nàn mà Mẹ dành cho Chúa;

Hoa lan toát lên sự trung thành, mạnh mẽ và can đảm nơi Mẹ;

Hoa sen tượng trưng phó thác, đại lượng và cung kính nơi Mẹ;

Hoa có màu tím tượng trung cho sự khiêm tốn ...

Người Việt Nam chúng ta khi biết ơn ai, hoặc kính trọng ai, thường hay biểu cảm qua bó hoa hay bông hoa. Cũng vậy khi đón nhận được ơn lành từ Trên ban, người ta cũng dâng tạ bằng những bông hoa. Với người Công Giáo, những biến cố quan trọng trong đời sống đức tin như: khi Rửa tôi; Thêm Sức; lãnh nhận Hôn Phối; hay Truyền Chức thánh, người ta cũng tặng hoa cho những người được mừng, và ngay cả khi chết, người ta cũng biểu đạt bằng hoa trên quan tài, bên di ảnh hay nơi mộ phần. Hay khi gặp rủi ro, tai nạn, bệnh tật, khi hết bệnh, người ta cũng dâng hoa để tỏ làng biết ơn với Thiên Chúa, Đức Mẹ và các thánh...

Riêng với Đức Mẹ, người dân Việt Nam có lòng sùng kính đặc biệt. Từ khắp nơi, mọi thành phần, lứa tuổi, đều hân hoan, nô nức dâng kính Mẹ những đóa hoa tươi thắm mối dịp tháng Năm về. 

Tuy nhiên, hoa được dùng để qua đó, diễn tả hoa thiêng cõi lòng của con người. Hoa sẽ tàn phai, héo úa, lòng người cũng sẽ tàn phai và ủ rũ nếu không đón nhận được sứ điệp từ những việc đạo đức này. 

Vì thế, điều quan trọng chính là tấm lòng chân thành, đơn sơ, yêu mến, phó thác, cậy trông của mỗi chúng ta dành nơi Mẹ. Như thế, nhờ những cách hoa lòng, chúng ta sẽ được nâng tâm hồn lên với Mẹ để Mẹ đón nhận và bầu chữa cho chúng ta. Thật vậy, không một ai có lòng tôn kính Mẹ mà mất ơn cứu rỗi bao giờ. 

4. Lòng sùng kính Đức Mẹ đem lại hy vọng được sự sống đời đời

Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định: "Trong nhiệm cục ân sủng, kể từ khi Mẹ tin tưởng ưng thuận trong ngày truyền tin, sự ưng thuận mà Mẹ đã kiên quyết giữ trọn cho đến bên Thập Giá. Đức Maria tiếp tục thiên chức làm Mẹ cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu độ mọi người được tuyển chọn. Thực vậy, sau khi về trời, vai trò của ngài trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng ngài vẫn tiếp tục liên lỉ chuyển cầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được cứu độ đời đời .... Vì thế, trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Đấng Phù Hộ và Đấng Trung Gian" (LG 62).

Vì Mẹ là Mẹ của Đầu thân thể mầu nhiệm Hội Thánh là chính Đức Giêsu và là “mẹ của nhân loại” (x. LG 54), và, Đấng Cứu Thế đã mang lấy đau khổ của mọi người thì Mẹ Maria, Đấng đồng công cứu chuộc, đã chia sẻ hơn ai hết các hậu quả tai ác của tội lỗi nhân loại khi đảm nhận sứ mệnh làm Mẹ Đấng Cứu Thế: “Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2, 35).

Tuy nhiên, vai trò Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Đấng Phù Hộ và Đấng Trung Gian của Đức Mẹ phải gắn liền với Đức Giêsu Đấng là khơi nguyên và cùng đích của mọi điều thiện hảo.

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cung minh định: “Trinh nữ Maria được công nhận và tôn kính là Mẹ đích thực của Thiên Chúa và của Đấng Cứu chuộc... Mẹ cũng thật sự là ‘Mẹ các chi thể Chúa Kitô’... vì Mẹ đã cộng tác bằng đức ái của mình vào việc sinh ra các tín hữu trong Hội Thánh, là những chi thể của Đức Kitô là Đầu. Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, là Mẹ của Hội Thánh” (x. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 963). 

Việc sùng kính Đức Maria còn bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi vì: nhờ Người, với Người và trong Người, mọi vinh quang, danh dự đều quy về Cha trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần. Vì vậy, những biểu hiện tỏ lòng tôn kính Mẹ Maria cần phải dẫn đến việc tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.

Thế nên, mọi việc tôn sùng Đức Mẹ phải nhằm vào sự kết hợp trực tiếp với Đức Giêsu, thiếu yếu tố này, mọi việc kể như vô hiệu.

Qua những gì đã chia sẻ ở trên dựa trên Giáo huấn của Giáo Hội, chúng ta có quyền tin tưởng sẽ được cứu độ khi tôn sùng Đức Mẹ cách chính đáng và hợp với ý định và trong chương trình của Thiên Chúa. 

Về điểm này, thánh Alphonsô quả quyết: "Hết mọi ơn thánh ở trong Chúa Giêsu như nguồn mạch: nhưng do ý định mầu nhiệm và thương xót của Chúa, không một ơn nào ban xuống cho loài người mà không có Mẹ cầu xin cho. Hơn nữa, Mẹ Maria là Mẹ đầy tình thương, Mẹ chỉ có một sứ mạng, một chức vụ là thương xót: đến nỗi những tội nhân khốn nạn nhất, tuyệt vọng nhất là những người đầu tiên được Mẹ cứu, Mẹ dấu yêu, miễn là họ đừng bỏ mất thiện chí cải tạo mà tin tưởng chạy đến với Mẹ". Ngài còn kêu gọi tội nhân bằng lời tha thiết này: "Bạn hãy yêu mến Mẹ Maria! Hãy cầu xin Mẹ, thì bạn sẽ được cứu rỗi"; "Chúng ta được rỗi là do Mẹ cầu bầu”; "Tôi tớ Mẹ không ai có thể hư mất đời đời”.

5. Những việc làm cụ thể tỏ lòng tôn sùng Đức Mẹ theo truyền thống Việt Nam

Bắt nguồn từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Người dân Việt Nam ngay từ lâu, đã có hình ảnh tốt đối với Đức Mẹ qua hình ảnh người mẹ trong đời thường. 

Chắc chắn đã có lần anh chị em nghe lời giới thiệu ngọt ngào, truyền cảm, đầy xúc động của ca sĩ Thanh Lan trong băng nhạc chủ đề Quê hương và Lòng Mẹ như sau:

"Mẹ là dòng suối ngọt ngào"

"Mẹ là bóng mát dịu dàng"

"Mẹ là nguồn thương yêu bất tận"

"May mắn thay là những người còn mẹ"

"Mất mát thay là những người thiếu mẹ"

"Mỗi người chúng ta hãy dành một Bông Hồng cài áo Mẹ"

"Tất cả chúng ta đều trở nên bé nhỏ dưới ánh mắt, trong vòng tay và trong tình thương yêu bao la như biển cả của mẹ."

"Mẹ đã che chở cho chúng ta trong những vinh nhục của cuộc sống, qua những sóng gió của cuộc đời". 

Như vậy, lòng sùng kính Đức Mẹ của chúng ta mang đậm nét kính trọng và mến yêu vì mang nặng tình mẫu tử. Qua hình ảnh người mẹ trần gian, thôi thúc chúng ta hướng về Mẹ trên trời. Thật vậy, trong cuộc sống, những lúc gặp khó khăn hay hoạn nạn, nhiều người đã thuộc nằm lòng những ca vãn ngợi khen, và cầu xin tha thiết như: “Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển… “; “Mẹ ơi, đoái thương xem nước Việt Nam…”; “Lạy Mẹ, xin yên ủi chúng con luôn luôn…”, v.v… rồi những kinh Kính Mừng, tràng chuỗi Mân Côi được đọc lên râm ran trong các thánh đường, nơi các gia đình, và trong mọi biến cố vui buồn, thành công hay thất bại... Các cuộc rước linh đình, nhiều đền đài được mọc lên, nhiều nhà thờ được mang tước hiệu của Mẹ. Những thói quen đó đã đem lại cho Giáo Hội Việt Nam một tinh thần sốt sắng, giàu đức tin, lòng mến và trung kiên giữ đạo dù trải qua trăm nghìn thử thách gian truân. 

Tuy nhiên, việc sùng kính đó nhiều lúc đã làm cho không ít người xa lạ với đức tin, tức là họ đã nhìn nhận Đức Mẹ như là đấng Trung Gian tuyệt đối, mà quên mất rằng: “Mọi ảnh hưởng có sức cứu độ của Đức Trinh Nữ trên nhân loại, đều bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa Kitô" (x. LG 60). "Thực vậy, không bao giờ có thể đặt một thụ tạo nào ngang hàng với Ngôi Lời Nhập Thể và Cứu Chuộc” (Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 970). 

Thiết nghĩ, nhân dịp này, mỗi chúng ta hãy nhìn lại việc sùng kính của mình dành cho Đức Mẹ, và nếu đang đi quá xa về cách thức biểu lộ niềm tin và cách tôn sùng Mẹ không đúng với Giáo Huấn của Giáo Hội, thì hãy chỉnh lại sao cho phù hợp, để lòng tôn sùng Đức Mẹ không mất đi hay xa lạ với Đức Tin Công Giáo mà lại làm cho đức tin được thêm khởi sắc và đúng như ý Chúa, ý Mẹ và Giáo Huấn của Giáo Hội mong muốn. 

Vì thế, Công Đồng đã nhắc nhở: “Lòng tôn sùng chân chính không hệ tại ở những tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại ở sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).

Mong sao, những việc tôn sùng Đức Mẹ của chúng ta sẽ dẫn đến việc noi gương Mẹ để sống cho đẹp lòng Thiên Chúa như Mẹ đã sống, để sau cuộc đời này, chúng ta được cùng Mẹ ca ngợi Thiên Chúa không ngừng trên Thiên Quốc. 

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con người Mẹ tuyệt với là Đức Maria. Xin cho mỗi chúng con biết yêu mến Chúa như Mẹ, biết noi gương các nhân đức của Mẹ, để sau cuộc đời nay, chúng con cũng được vào Thiên Quốc dự tiệc vui bên Mẹ. 

Lạy Mẹ Maria, xin đón nhận muôn vàn ý nguyện của chúng con dâng lên Mẹ qua những đóa hoa muôn sắc màu, ước gì chúng con được đón nhận những ơn lành của Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ. Amen.


(Nguồn: Vietcatholic.net)

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2014

Tiểu sử hai vị Thánh Giáo Hoàng qua chùm ảnh


Tiểu sử hai vị Thánh Giáo Hoàng qua chùm ảnh


Đức Gioan XXIII:


10177332_10202035389834703_662178305532220586_n
1. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII tên khai sinh là Angelo Giuseppe Roncalli sinh ngày 25 tháng 11 năm 1881. Ngài là người con thứ tư trong gia đình có mười bốn đứa con. Cha mẹ ngài là những tá điền sống trong một ngôi làng ở Lombardy, Italia.


10250270_10202035404795077_4473759709901702313_n
 2. Sau khi hoàn tất tốt đẹp năm thứ hai của thần học vào tháng Bảy năm 1900, thì vào tháng Giêng năm sau, thầy được gửi về Roma vào chủng viện Apollinare, nơi có một số học bổng cho hàng giáo sĩ thuộc giáo phận Bergamo. Tuy phải thi hành nghĩa vụ quân sự tại Bergamo từ ngày 30 Tháng 11 1901, việc huấn luyện chủng sinh cũng đặc biệt mang lại kết quả tốt đẹp. Ảnh chụp năm 1901, khi đó ngài 20 tuổi. Ảnh© Corbis. All Rights Reserved. 
10251909_10202035405915105_176276278800188748_n
3. Vào năm 1925, với sự bổ nhiệm làm Visitatore Apostolico tại Bulgaria, ngài đã bắt đầu giai đoạn phục vụ cho ngành ngoại giao của Tòa Thánh cho đến năm 1952. Sau lễ phong chức giám mục diễn ra tại Rome vào ngày 19 tháng 3 năm 1925, ngài khởi hành đi Bulgaria với nhiệm vụ giúp đỡ cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé và đang gặp nhiều khó khăn tại đó. Khởi đầu công việc và tiếp tục cả hàng chục năm, Đức cha Roncalli đã đặt nền móng cho việc thiết lập một Tông Tòa mà ngài đã được bổ nhiệm làm vị đại diện đầu tiên vào năm 1931. Ảnh chụp năm 1926, một năm sau khi ngài được thụ phong chức giám mục.

1511408_10202035406475119_5278074687766474299_n
4. Ảnh chụp vào một lúc nào đó giữa năm 1939 và năm 1958 
10270537_10202035407155136_5539725823786149894_n
5. Chân phước Gioan XXIII cầu nguyện sau khi được bầu làm vị kế nhiệm thánh Phê-rô. Ở tuổi 76, ngài là vị giáo hoàng nhiều tuổi nhất được bầu trong vòng hơn 200 năm qua.

10268632_10202035408195162_151289823190751408_n
6. Chân phước Gioan XXIII trong khu vườn Vatican. Không xác định được ngày chụp
10314762_10202035409115185_2785538786871294865_n
7. Chân phước Gioan nổi tiếng về sự nồng hậu, đơn sơ, tính hài hước
10176159_10202035410155211_6123700361745554459_n
8. Thi hài chân phước Gioan XXIII trong lễ tang tháng 1/ 1963 tại quảng trường thánh Phê-rô

Đức Gioan Phaolô II:


10308143_10202035411555246_1500295170828302118_n
1. Cậu bé Karol Józef Wojtyła sinh vào ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại Wadowice, miền nam Ba Lan, cách Kraków 50 cây số. Là con út trong một gia đình có ba người con, cô chị chết từ khi còn nhỏ. Cha ông là Karol Wojtyla một cựu sĩ quan trong quân đội Habsburg và mẹ là Emilia Kaczorowka.
10154119_10202035413035283_4496784085756557492_n
2. Kỷ niệm rước lễ lần đầu lúc 9 tuổi
 10168050_10202035413315290_8541692623011976133_n
 3. TGM Karol Wojtyla of Krakow nhận mũ Hồng y từ tay Đức Phao-lô VI tại nhà nguyện Sistine ngày 26/6/1967.
10155482_10202035414395317_2491137017232499278_n
4. Đức Gioan Phaolô II ra mắt các tín hữu từ ban công quảng trường thánh Phê-rô ngay sau mật nghị hồng y ngày 16/10/1978. Đức Hồng y Karol Jozef Wojtyla của Ba Lan không được biết đến nhiều trong giáo hội đã được chọn làm Giáo Hoàng. Lúc đó ngài 58 tuổi. Ảnh CNS
 10306737_10202035415675349_2776685848319335894_n
5. Đức Gioan Phao-lô II bị bắn vào ngực ngày 13/5/1981 tại quảng trường thánh Phê-rô. Thủ phạm là tay súng người Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Agca L’Osservatore Romano
10246482_10202035416915380_545017750999234995_n
6. Đức Gioan Phao-lô II bước ra từ một căn lều để cử hành thánh lễ tại sân vận động Parakou, Benin năm 1993. Đây là chuyến tông du thứ 104 của ngài.
 1969295_10202035417355391_7455840057798286186_n
7. Tổng thống Mỹ Bill Clinton đứng cạnh Đức Gioan Phao-lô II trong buổi chào đón tại Denver ngày 12/8/1993.
10253991_10202035418315415_6435414367337297020_n
8. Dân chúng khóc khi thi hài Đức Gioan Phao-lô II được di chuyển tới quảng trường Thánh Phê-rô ngày 4/4/2005.
Tổng hợp, Jos. Đức Trung
Tổng hợp từ  The Catholic Herald Facebook
VRNs (27.4.2014) – Sài Gòn – giới thiệu

Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2014

Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư


QUỐC VĂN GIÁO KHOA THƯ cùng cuốn LUÂN LÝ GIÁO KHOA THƯ là hai cuốn sách xuất bản từ những năm 1930 - 1940, là một trong những cuốn sách giáo khoa tiếng Việt được dạy song hành ở các trường tiểu học Việt Nam trong suốt những thập niên thuộc nửa đầu thế kỷ 20. Qua đó cho thấy sự coi trọng vấn đề luân lý, đạo đức con người của người xưa, nó không chỉ là một môn học thông thường mà là một nội dung lớn xuyên suốt quá trình phát triển trí óc và tâm hồn trẻ thơ. Nay cuốn sách được tái bản lại, tuy một số nội dung không còn phù hợp hoàn toàn với quan điểm giáo dục hiện nay song xét về mặt ý nghĩa và giá trị giáo dục thì vẫn còn.
Xin giới thiệu truyện ngắn đầy tính nhân văn sau đây của nhà văn Sơn Nam.

Truyện ngắn : Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư
Nhà văn SƠN NAM



  - Từ đây tới nhà ông Trần Văn Có gần hay xa vậy thầy? 
    Thầy xã trưởng đáp: 
    - Ở xóm Cà Bây Ngọp lận! Ðể tôi ra lịnh cho phó hương ấp đòi tên đó tới công sở... 
    Thầy phái viên nhà báo “Chim Trời” giựt mình. 
    - Tôi là phái viên, đâu có quyền hạn đó đối với quý độc giả thân mến gần xa. 
    Thầy xã hỏi: 
    - Phái viên là gì vậy thầy? 
    - Là người thay mặt cho tờ báo đi cổ động và thâu tiền. 
    - À! Bây giờ tôi mới biết cái thằng Tư Có. Nó thiếu tiền của nhà báo hả? Hèn chi nó bơi xuồng lên công sở lãnh báo, đúng bảy bữa là có mật nó. Nghèo không biết thân lại còn bày đặt làm sang mua báo không trả tiền! 
    Thầy phái viên cố nén sự bực tức khi nghe người độc giả thân mến của mình bị thầy xã khinh khi; thầy hút thuốc suy nghĩ rồi lại hơi buồn buồn mà nhớ đến sự thất bại về tài chánh. 
    Ông độc giả Trần Văn Có thiếu sáu tháng tiền báo tức là hai đồng sáu cắc rưỡi. Từ chợ Rạch Giá vô đây, thầy đã tốn gần ba cắc rưỡi tiền tàu, tiền thuốc hút. Chuyến về lại phải xuất thêm ba cắc nữa... Ông độc giả nghèo nàn này chắc gì trả được một đồng trong số tiền thiếu chịu nhà báo! 
    Nhưng đã tới đây rồi mà trở về thì uổng cuộc viễn du Hậu Giang này quá! Thầy phái viên quyết tình binh vực thể diện của người độc giả nọ: 
    - Không phải tôi đi đòi tiền! Tôi đi dò hỏi ý kiến bạn đọc đối với tờ báo. Tiền bạc là quý... Nhưng ý kiến của bạn đọc lại quý hơn. Ðộc giả ở tới đâu, chúng tôi đi tới đó. 
    Sau vài phút đi tới đi lui, thầy xã gất đầu: 
    - Ðược. Ðể tôi biểu thằng “Trạo” chèo tam bản đưa thầy. Thầy nên dè chừng. Tên Trần Văn Có nói mười, thầy tin một là vừa. Anh ta công kích tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang Sa gởi xuống công sở; đi ăn giỗ thì nói chuyện Hít Le, chuyện nước Ý đánh nước Á, chừng hỏi kỹ mấy nước đó ở đâu, anh ta bí lối nói lảng qua chuyện Tàu... 
    Thầy phái viên tò mò: 
    - Vậy thì ông độc giả của chúng tôi rành chử nho? 
    - Ai biết rõ được. Anh ta nói có dây có nhợ, tích người học trò nghèo tên là ngươì Thừa Cung gì đó... chăn heo; ông quan đại thần Lý Tích đích thân nấu cháo cho chị ăn dè đâu bị lửa táp cháy râu. Chưa hết đâu, thầy phái viên ơi! Hễ gặp ai say rượu anh ta nói một hơi như thầy chùa tụng kinh, có ca có kệ. Cái gì mà các anh hãy trông người kia đi ngoài đường, mặt đỏ gay, mắt lờ đờ... 
    Thầy phái viên cười lớn, nhịp mạnh tay xuống bàn ba bốn lần như đánh trống chầu hát bội, đôi mắt sáng ngời, chân nhảy nhót như con nít: 
    - Hay quá! Hay quá! Tôi thăm ông độc giả đó mới được. Ổng làm thầy giáo hả thầy? Nhờ thầy đưa tôi đi tới gặp mặt. Ngộ quá hen! Ừ! Ừ! 
    Bực mình quá chừng, thầy xã nghĩ: “Ông phái viên này kêu mình bằng thầy mà lại tưng bốc kêu Tư Có bằng ông. Hay là ổng chê mình không dám xuất tiền mua báo như Tư Có. Chừng bận về, mình mua vài năm báo chơi cho biết mắt”. 
    Thầy xã hối thúc cho chú trạo sửa soạn quai chèo đưa thầy phái viên đến ấp Cà Bây Ngọp. Thầy phái viên cám ơn một tiếng nhỏ rồi cúi đầu xuống nói rù rì như xa như gần, trong cuống họng: 
    - Ờ! Ðể coi các anh hãy trông người kia đi ngoài đường, mắt đỏ gay, mắt lờ đờ, quần áo xốc xếch, chân đi xiêu bên nọ vẹo bên kia, múa chân múa tay, mồm nói lảm nhảm... Lũ trẻ theo sau reo cười chế nhạo... Ðúng vậy, Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp sơ đẳng, Việt Nam Tiểu học tùng thư... Sách náy do Nha Học Chính đã giao cho ông Trần Trọng Kim, ông Ðặng Ðình Phúc và ông Ðỗ Thận soạn... Eo ơi! Cái buổi thơ ấy đó nay còn đau. 
    Ðường đi ấp Cà Bây Ngọp quá xa vời! Chiếc tam bản nhún xuống một cái “ồ” rồi nhảy tới một cái “sạt” theo nhịp chèo hai chèo. Nắng chang chang rắc vàng trên thảm cỏ hoang xanh ngắt. Vài nhánh bình bát gie ra, quất vào bụi sột soạt. Xế chiều, cò trắng phất cờ như đón người khách lạ. Trích, cúm núm kêu ré lên. Con rạch thâu hẹp lại. Chiếc tam bản lắc nghiêng như trái dừa khô trên mặt nước đầu sóng gió. Ánh trạo chèo một chèo, nghiêng mình bên hữu. Rồi bỗng nhiên anh chụp mỗi tay một cây chèo mà chèo trên đất khô bên bờ rạch. Chiếc tam bản lại lướt nhanh trong lòng nước quá hẹp, vừa đủ lọt bề ngang. 
    Anh trạo mỉm cười: 
    - Chèo như vậy đi lẹ hơn. Mọi lần mùa hạn, nước cạn queo, dưới sông đầy bùn non, tôi cưỡi trâu trên bờ mà kéo. Chiếc tam bản đi như cộ kéo lúa... 
    - Chú trạo biết rành nhà Từ Có không? 
    - Dạ, biết. Tư Có ở một mình, nuôi heo, giăng câu, ăn ong, nghe nói y ở xứ Vãng Long xuống đây tính bề dạy học mà xin phép chưa được... 
    Buổi cơm chiều ngon lành làm sao! Ăn cá lóc nướng trui, uống rượu “ông cọp”. Anh trạo đã về, Tư Có kềm thầy phái viên ở lại ngủ một đêm, chú hứa sáng mai bơi xuồng đưa thầy trở lại công sở mà đón tàu đò. Thếp đèn dầu cá kéo thêm một tim thứ nhì nữa, cháy khá sáng. Bếp un dưới đất tỏa lên cuồn cuộn, tỏ rõ từng sợi khói mịn màng như mànhlưới tơ giăng bủa khắp căn chòi nhỏ hẹp. 
    Tư Có bỏ mùng xuống, chun vô tấn ba phía rồi mời: 
    - Thầy Hai vô trong này ngồi nói chuyện cho vui. Ở ngoài muỗi cắn. Khói như vậy mà muỗi cứ bu lại rớt lềnh trong thếp đèn dầu cá đó. 
    Ngượng nghịu, thầy phái viên nhà báo Chim Trời rón rén dở mí mùng, chun lẹ vào ngồi kế bên: 
    - Xứ gì lạ quá! Anh Tư ở đây hoài sanh bịnh chết. 
    Tư Có đáp: 
    - Xứ Cà Bây Ngọp, tiếng Khơ Me nghĩa là trâu chết. Hồi đó nghe nói trâu “len” tới đây thất bại, phong thổ ẩm thấp trâu chết nhiều quá. Họ đặt tên kỷ niệm luôn... Bởi vậy dân tình bịnh hoạn, thưa thớt, làng này chưa cất nổi cái trường học. 
    Thầy phái viên trố mắt: 
    - Vậy à? Còn mấy làng khác? 
    - Ðông Thái, Ðông Hoà, Ðông Hưng, Vân Khánh Ðông... không làng nào có trường hết. Thầy nghĩ coi... 
    - Hèn chi miệt này chỉ một mình anh Tư là độc giả báo Chim Trời của chúng tôi... Báo có thích hợp không anh Tư? 
    - Nói chí tình, đó là của người bà con ở Sài Gòn “đăng” dùm tôi, ban đầu tưởng nói chơi dè đâu nhà báo gởi xuống thiệt, xem cũng đỡ buồn. Phần nhiều bài vở của mấy ông viết cao quá. Tôi thường đọc cái trương Văn Uyển, có bài thơ bát cú vủa cô Bích Lý vịnh cảnh sông Hương. Hay quá lẽ! về sau, ông Trần Bất Diệt ở Cầu Kè họa vận... 
    Thầy phái viên gật đầu, ừ lấy lệ, thật ra hồi nào tới giờ đi cổ động cho báo Chim Trời mà ít khi thầy đọc kỹ báo nhà. Tư Có hỏi tiếp: 
    - Nhà báo Chim Trời đông người không thầy? Chắc là lớn lắm? Làm sao mà thành chữ được. 
    - Có thợ chuyên môn ráp từ chữ a, chữ b. 
    - Trời thần ơi! Biết tới chừng nào mới xong, chắc là thợ đông lắm... Còn mấy ông chủ nhiệm, chủ bút, phóng viên... Chắc làm việc rần rộ ngày đêm. 
    thầy phái viên sực nhớ đến tình trạng loe hoe của toà soạn, gật đầu lần nữa. 
    - Làm báo thì cần nhiều trí óc lắm phải không thầy phái viên? Tiếc là hồi nhỏ cha tôi chết sớm. Hồi đó, ổng làm thầy giáo cũng đặt thơ bát cú, từ cứ. Cha tôi chết, má tôi giữ mấy pho sách, dạy lại tôi. Ðó là sách Quốc Văn giáo khoa thư, thầy còn nhớ không? 
    Thầy phái viên cười: 
    - Nhớ chớ. Làm sao mà quên được! Hồi nhỏ tôi hớt “ca rê”, tay xách tòn ten bình mực đi học ở trường làng. Hồi đó, trí óc minh sáng suốt, nhớ dai lắm. Bây giờ lớn tuổi, đầu bạc hoa râm, đi làm ăn rày đây mai đó, nhớ nhà, nhớ trường học, nhớ làng xưa. 
    Tư Có nói: 
    - Chắc là thầy muốn nói bài “chốn quê hương đẹp hơn cả” chớ gì? 
    Rồi chú đọc một hơi: 
    - Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm, láng giềng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi: ông đi du sơn du thủy... 
    - Ðó đa! Ðó đa! Anh Tư nhớ kỹ quá... Người du lịch mới trả lời: ở chống quê hương... từ cái bụi tre ở xó vường cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi cho tôi những mối cảm tình chứa chan... Bài đó có hình ông già mang kiếng, chống gậy nói chuyện với mấy người khăn đống áo dài. 
    - Thì hình nào cũng khăn đống áo dài. Trừ ra cái hình thằng nhỏ chăn trâu cầm roi: ai bảo chăn trâu là khổ... Không, chăn trâu sướng lắm chứ. 
    Thầy phái viên phụ họa theo như cùng hợp xướng: 
    - Ðầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như voi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tôi nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượng trên đám cỏ... 
    Rồi thầy kéo qua những đoạn khác mà thầy nhớ: 
    - Hay quá! Nhà báo bây giờ không ai bằng. Văn chương như vậy là cảm động lòng người... Như cái hình ông già đẩy xe bò lên dốc, có hai đứa học trò kéo dây tiếp sức. Trời nắng to. Ðường thì dốc. Một ông lão đẩy cái xe lợn. Trên xe có ba bốn con lợn to, chân trói bụng phơi và mồm kêu eng éc... 
    Tư Có vỗ trán: 
    - Còn ông già khuân tảng đá nữa, thấy mà thương: Trời nhá nhem, chạng vạng tối, tôi thấy một ông cụ già hì hục khuân tảng đá. Ông cụ nhắc lên để xuống đến bốn năm lần mới đem được từ giữa đường đến chỗ bụi cây mà bỏ đấy... Lão đi lỡ vấp phải tảng đá này, sầy cả chân đau lắm nên khuân bỏ vào đây, sợ có người vấp nữa chăng. 
    Thầy phái viên lại không chịu rằng mình kém trí nhớ: 
    - Ngang hình ông già đó, trương phía tay trái có bài chọn bạn mà chơi, thói thường gần mực thì đen. Cha chỉ ngón tay, con đứng khoanh tay cúi đầu mà nghe. Dưới chót lại có hàng chữ: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. 
    Tu Có gất đầu: 
    - Ðó là ngụ ý răn he gương tốt thói xấu. Phải siêng năng như Sửu chăm học, ngồi bên đèn mà đọc sách; đừng lười biếng như thằng Bình đánh vòng. Phải bền chí học hành. Ờ thầy phái viên chắc nhớ cái hình con kiến tha mồi! Văn chương nghe như đờn Nam Xuân: Nước mềm, đá rắn thế mà nước chảy mãi đá cũng phải mòn. Sợi dây nhỏ, cây gỗ lớn, vậy và dây cưa mãi cũng đứt. Con kiến nhỏ, cái tổ to, thế mà kiến tha lâu cũng đầy tổ. Người ta cũng vậy... 
    Không ai bảo ai, hai người lại nằm xuống lim dim. Tuổi của họ đã quá ba mươi! Nước chảy mãi mà sao đá không thấy mòn? Sợi dây cưa mãi, gỗ chưa đứt mà sợi dây sắp đứt trước. Sự nghiệp của họ nào đã có gì: Kẻ mến cái thú ở nhà quê, người lận đận với cái thú ở kẻ chợ. 
    Nằm mãi không ngủ được, thầy phái viên lắng nghe những tiếng động trong nhà, giữa tiếng mọt nghiến gỗ kèn kẹt như người đưa võng, bất chấp tiếng chuột chạy sột soạt và nhất là tiếng muỗi rừng lộng hành kêu vo vo, thầy mơ lại những ngày năm nay tôi lên bảy, tôi đã lớn, tôi không... lêu lổng nữa. Còn đâu mùi hương của những quyển sách mới bao bìa kỹ lưỡng nhưng vài ngày sau đã rách bìa! Làm sao nghe được tiếng phập phồng trong ngực của đứa bé khi trời mưa to, đi học trễ, run rẩy bước vào trường rồi cổi áo phơi ngay trong lớp... Ðây, thầy giáo mặc đồ bà ba, lâu lâu bước ra khỏi lớp để chào hỏi khi thầy xã, thầy cai tổng đi ngang qua. Một đôi lúc, thầy giáo quá cay nghiệt đã dùng thước đánh vào những đầu ngón tay non yếu, hoặc hươi cây thước bảng... 
    Dầu sao đi nữa, những kỷ niệm xa xưa vẫn vui, vui như một lũ học trò giành nhau chụp cho được cây dùi trống, đánh thùng thùng báo hiệu giờ vào lớp. 
    Giọng Tư Có nói nhỏ: 
    - Ngủ chưa, thầy phái viên? 
    Thầy phái viên yên lặng, trời mới mưa, các chỗ trũng đầy nước cả nên cóc và nhái kêu ính ỏi. Vài giọt mưa rớt nhẹ xuống đất... Và rơi trên rạch Cà Bây Ngọp trước nhà. Hồi năm nào, thầy là giọt nước trong lành đó, bây giờ nó đã trôi xa, ra sông, chứa đựng rác rến, chảy hăng ra biển. Ừ, hoạ chăng đó là con đường hiệu quả nhất là được sớm bốc thành hơi, đầu thai trở lại nguồn... Nghĩ vậy, thầy khoan khái mỉm cười ngồi dậy hỏi: 
    - Ngủ chưa anh Tư? 
    - Chưa! 
    - Tôi nãy giờ cũng vậy, muốn ngủ sớm để mai về nhà, mà không thấy mệt. 
    Im lặng một hồi lâu, rất lâu, Tư Có nói ngậm ngùi sau một tiếng thở dài: 
    - Biết lấy gì làm sở phí cho thầy. Thầy nói thiệt tình nghe coi... Chắc thầy tới đây thâu tiền. 
    - Ðâu có! Ðâu có! Mình là bạn đời với nhau... 
    - Thầy hiểu cảnh tôi. Không lẽ gởi cá lóc, rùa, mật ong... nhờ thầy đem về Sài Gòn gọi là tiền của tôi trả cho nhà báo. Tôi “đăng” là vì ái mộ báo Chim Trời chớ ít đọc lắm. Mấy thầy viết cao quá. Tôi mua để dành về sau cho đủ bộ. 
    - Anh Tư đừng ngại chuyện đó. Cứ tiếp tục đọc. Lâu lâu dò nơi mục Thư tính không chừng có lời của tôi thăm hỏi anh Tư. Nếu thấy báo đăng đòi tiền các độc giả, xin anh Tư hiểu rằng đó là nhắc nhở các người khác. Tôi hứa nói lại với ông chủ nhiệm mỗi kỳ gởi tặng anh Tư một số báo, hoài hoài cho tới số chót. 
    Chú Tư Có vô cùng cảm động: 
    - Thôi thầy ngủ lấy sức để mai về bình yên. Khuya nghe chồn cáo cộc kêu, thầy đừng giựt mình: Ở đây miệt rừng, không có... xa xa thì nghe tiếng chó sũa trăng. 
    Thầy phái viên cười dòn, tưởng tượng cái cảnh biệt ly ngày mai “Ôi! Cái cảnh biệt ly ở xóm Cà Bây Ngọp sao mà buồn vậy!”. Vĩnh biệt thì đúng hơn. Nghe nó buồn như một giọng hò, một câu rao Vọng Cổ, nhưng thầy chưa muốn nói ra, giờ này.

Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014

SÁCH "KON TUM -100 LỊCH SỬ VÀ PHÁT TRIỂN" : SAI SÓT THÔNG TIN VỀ SỰ QUA ĐỜI CỦA LINH MỤC VIALLETON (TRUYỀN), BỀ TRÊN MIỀN TRUYỀN GIÁO KONTUM




SÁCH "KON TUM -100 LỊCH SỬ VÀ PHÁT TRIỂN" : SAI SÓT THÔNG TIN VỀ SỰ QUA ĐỜI CỦA 
LINH MỤC VIALLETON (TRUYỀN), 
BỀ TRÊN MIỀN TRUYỀN GIÁO KONTUM



Dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập tỉnh Kon Tum (09/02/2013),  Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kon Tum đã tổ chức biên soạn và xuất bản cuốn sách “Kon Tum - 100 năm Lịch sử và Phát triển” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2013). Đây là công trình bổ ích và cần thiết, đem đến cho bạn đọc thêm thông tin về quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ quê hương Kon Tum - đất và người, hơn 100 năm qua.

Sách Kon Tum-100 năm lịck sử và phát triển
Ảnh: www.kontum.gov.vn

Chúng tôi không may mắn có được cuốn sách này vào dịp kỷ niệm trọng đại trên, nhưng chỉ được đọc thoáng qua trên Trang thông tin điện tử Ban Tuyên Giáo Kon Tum, bản PDF:
Sách gồm 4 phần và 9 chương, phản ảnh quá trình lịch sử Kon Tum từ mốc chọn năm 1471, đến hoạt động của các triều đại Nam Triều tiếp theo, từ những năm Minh Mạng thứ  X (1829); đến năm đầu Thiệu Trị (1841). Đồng thời, đặc biệt nhấn mạnh mốc lịch sử chính thức thành lập đơn vị hành chính cấp tỉnh, mang tên “Tỉnh Kon Tum” theo Nghị Định ngày 09/02/1913 của Toàn quyền Đông Dương.

Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

Video: Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII


Video: Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII
VietCatholic Network4/20/2014


Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ phong thánh cho hai vị Giáo Hoàng tiền nhiệm của ngài là Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II vào ngày 27 Tháng 4 tới đây.


Việc chọn phong thánh cho hai vị cùng một ngày thật là đầy ý nghĩa. Cả hai vị đại Giáo Hoàng đều có những ảnh hưởng sâu đậm không những trên Giáo Hội mà còn cả trên vận mệnh của thế giới đương đại.

Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII tên khai sinh là Angelo Giuseppe Roncalli sinh ngày 25 tháng 11 năm 1881. Ngài là người con thứ tư trong gia đình có mười bốn đứa con. Cha mẹ ngài là những tá điền sống trong một ngôi làng ở Lombardy, Italia. 

Ngài được thụ phong linh mục ngày 10 tháng 8 năm 1904 và đảm trách nhiều chức vụ khác nhau như sứ thần Tòa Thánh tại Pháp, Bulgaria và Hy Lạp. 

Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tấn phong Hồng Y cho ngài ngày 12 Tháng Giêng năm 1953 và đặt ngài làm Thượng Phụ Thành Venice cũng như Hồng Y đẳng linh mục hiệu tòa Santa Prisca.

Đức Roncalli được bầu làm giáo hoàng vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 ở tuổi 76 sau mười một vòng bỏ phiếu. Những nhà bình luận thời ấy thường xem ngài như một vị Giáo Hoàng tạm thời. Tuy nhiên, Đức Gioan XXIII đã làm kinh ngạc họ với những dấu ấn ngài để lại cho Giáo Hội và thế giới.

Ngài đã triệu tập Công Đồng Vatican II lịch sử với phiên khai mạc đầu tiên vào ngày 11 tháng 10 năm 1962 và kéo dài cho đến ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội 8 tháng 12 năm 1965.

Ngày 14 tháng 10 năm 1962, tức là ba ngày sau khi Đức Thánh Cha Gioan XXIII khai mạc Công Đồng, máy bay do thám Mỹ phát hiện ra Cuba và Liên Xô đã bắt đầu xây dựng các dàn phóng tên lửa đạn đạo hạt nhân tầm trung và tầm xa có khả năng tấn công hầu hết tất cả các thành phố trên nước Mỹ. 

Tổng thống Kennedy đặt quân đội trong tình trạng sẵn sàng chiến tranh, ráo riết triển khai các dàn phóng tên lửa hướng về Mạc Tư Khoa và Havana, phong toả Cuba, trong khi buộc Liên Sô và Cuba phải tháo gỡ các tên lửa. Bí thư đảng cộng sản Liên xô là Nikita Khrushchev không nhượng bộ còn đưa thêm tàu chiến áp sát Cuba và cho phép các tư lệnh chiến trường phóng các vũ khí hạt nhân chiến thuật, nếu Cuba bị Mỹ xâm lược. 

Thế giới tiến gần đến gần ngày tận thế hơn bao giờ hết. Hàng triệu người theo dõi các cuộc thách thức trên truyền hình. Hai phía dường như không còn có con đường nào để thoát ra khỏi một cuộc chiến được dự đoán là không thể tránh khỏi.

Trước tình trạng mây đen chiến tranh đang tụ dần, che kín chân trời thế giới, ngày 25 tháng 10 năm 1962, trên radio Vatican, Đức Thánh Cha Gioan XXIII, đọc một diễn văn quan trọng bằng tiếng Pháp gởi tất cả các nhà lãnh đạo trên thế giới.

Ngài nói:

“Chúng tôi xin tất cả các chính phủ đừng giả điếc với tiếng kêu than của nhân loại. Họ cần phải làm tất cả những điều có thể trong thẩm quyền của mình để cứu vãn hòa bình. Như thế, họ sẽ tránh cho thế giới khỏi các nỗi kinh hoàng của một cuộc chiến tranh, mà hậu quả đáng sợ của nó không ai có thể dự đoán được. Họ cần tiếp tục các cuộc thương thảo, vì lối cư xử thành thật và cởi mở này có giá trị to lớn như một chứng tá cho lương tâm của mọi người, và trước lịch sử. Cổ vũ, ủng hộ, chấp nhận các cuộc đối thoại, ở mọi cấp và bất kỳ lúc nào, là một quy luật của sự khôn ngoan và thận trọng, đem lại những ơn lành của trời và đất”.

Ngày hôm sau, thông điệp của Đức Giáo Hoàng xuất hiện trên các tờ báo trên khắp thế giới, trong đó có tờ Pravda (Sự thật), tờ báo chính thức của đảng Cộng sản Liên Xô. Nhan đề trong bài báo là: "Chúng tôi xin tất cả các chính phủ đừng giả điếc với tiếng kêu than của nhân loại”.

Với lời nài xin của mình, Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã cho thủ tướng Khrushchev một lối thoát trong danh dự. Bằng cách rút lui ngay lúc ấy, ông có thể được xem như là một con người của hòa bình, chứ không phải là một kẻ hèn nhát. Hai ngày sau, ông Khrushchev, một người vô thần, lãnh tụ của một đất nước luôn hăng máu hủy diệt tôn giáo, luôn cố gắng nuôi dưỡng một cuộc chiến tranh tuyên truyền không mệt mỏi chống Vatican, đã đồng ý rút các tên lửa. Đổi lại, Kennedy cũng đã bí mật đồng ý rút các tên lửa của Mỹ khỏi Thổ Nhĩ Kỳ.

Có một việc công chúng thời đó ít người biết là vào ngày 23 tháng 9 năm 1962, chỉ một tháng trước khi khai mạc Công Đồng Vatican II và giúp thế giới thoát khỏi bờ vực chiến tranh, kết quả việc chụp X-quang cho Đức Thánh Cha Gioan XXIII biết là ngài bị ung thư dạ dày giai đoạn cuối. Ngài biết là mình sắp từ giã cõi đời này. Trong lúc bi đát như thế, ngài vẫn tiếp tục cống hiến hết sức mình cho Giáo Hội và thế giới. 

Ngài được Chúa gọi về ngày 3 tháng 6 năm 1963. 

Những người thời đó đều lưu giữ một ký ức sống động về cảm xúc lan toả trong những ngày ấy. Quảng trường thánh Phêrô lúc đó trở thành một đền thánh ngoài trời, đón tiếp cả ngày lẫn đêm các tín hữu thuộc mọi lứa tuổi và thành phần xã hội, lo lắng và cầu nguyện cho sức khỏe của Đức Giáo Hoàng. Toàn thể thế giới đã nhìn nhận Giáo Hoàng Gioan là một vị mục tử và một người cha của nhân loại. Điều gì đã làm nên con người ngài như thế? Làm thế nào mà ngài có thể chạm đến trái tim của của những con người quá khác biệt nhau như thế, thậm chí ngay cả những người không phải là Kitô hữu nữa? 

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta có thể liên tưởng đến khẩu hiệu Giám mục của ngài: oboedienta et pax: vâng phục và bình an. "Những từ này," –Giám mục Roncalli đã ghi lại trước ngày thụ phong trong cuốn “Nhật Ký Một Linh hồn, tĩnh tâm để chuẩn bị thụ phong giám mục, 13-17 tháng 3 năm 1925”. 

Bình an là khía cạnh rõ ràng nhất người ta dễ dàng nhận thấy nơi Đức Angelo Roncalli : bình an tự nhiên, thanh thản và thân ái. Đây rõ ràng là một nét đặc biệt về nhân cách của ngài, giúp ngài xây dựng tình huynh đệ bền chặt ở khắp mọi nơi, chẳng hạn trong thừa tác vụ là Đại Diện Tòa Thánh. Ngài đảm nhận cương vị này gần 3 thập niên, thường tiếp xúc với những môi trường và thế giới cách xa Thế Giới Công Giáo, nơi ngài được sinh ra và lớn lên. Chính trong những môi trường này mà ngài tỏ ra là người thợ dệt hữu hiệu các mối quan hệ và một người vô địch của tinh thần hiệp nhất, cả trong cộng đoàn Hội Thánh lẫn bên ngoài. Hơn thế nữa, ngài mở ra cuộc đối thoại với các Ki- hữu thuộc các Giáo Hội khác, với những người đại diện của Do thái giáo và thế giới Hồi giáo, và với nhiều người thiện chí khác. 

Đức Giáo Hoàng Gioan đã chuyển ban bình an đến với những ai tiếp xúc với ngài bởi vì tâm hồn ngài chìm ngập trong bình an: ngài đã để cho Chúa Thánh Thần tạo nên bình an trong tâm hồn. Và tâm hồn ấy tràn ngập bình an là hoa trái của một công trình lâu dài và thách thức trên chính bản thân ngài, mà những dấu vết phong phú đã để lại trong cuốn “Nhật Ký của một Tâm Hồn”. Trong đó chúng ta có thể thấy Roncalli - người chủng sinh, linh mục, giám mục – bám chặt vào tiến trình tiệm tiến là thanh tẩy tâm hồn. Chúng ta thấy ngài, ngày qua ngày, nỗ lực nhận ra và loại trừ những ước muốn bắt nguồn từ tính ích kỷ của bản thân và biện phân những soi sáng của Chúa, để mình được hướng dẫn bởi những vị linh hướng khôn ngoan và được truyền cảm hứng từ những bậc thầy như thánh Phanxicô đệ Salê và thánh Carolo Boromeo. Đọc những bài viết đó, chúng ta thực sự thấy được một linh hồn đang được hình thành dưới tác động của Chúa Thánh Thần, đang hoạt động trong Hội Thánh Người, trong các tâm hồn; chính Chúa Thánh Thần, cùng với những xu hướng tốt đó, đã đem lại bình an cho tâm hồn Roncalli. 

Giờ đây chúng ta hãy đề cập đến với từ thứ hai và có tính quyết định, đó là từ: "Vâng phục". Cho dù bình an là nét bên ngoài, thì thiên hướng bên trong của Roncalli hệ tại là vâng phục. Quả thế, vâng phục là phương tiện để đạt được bình an. 

Trước tiên, nó có một ý nghĩa rất đơn sơ và thực dụng: chu toàn trong Hội Thánh một việc phục vụ mà các bề trên của ngài yêu cầu, bằng cách không hề tìm kiếm bất kỳ điều gì cho bản thân, không trốn tránh bất kỳ điều gì được đòi hỏi, ngay cả khi điều đó có nghĩa là phải rời bỏ quê hương để đối diện với những thế giới mà mình không biết và sống nhiều năm ở những nơi có rất ít người Công Giáo và ở xa nhau. Đó là tinh thần sẵn sàng để được dẫn dắt như một đứa trẻ, tinh thần này đã tôi luyện đời hoạt động của ngài như một linh mục, như các bạn đã biết rất rõ; thư ký của Giám Mục Radini Tedeschi và đồng thời giáo sư và cha linh hướng trong đại chủng viện của giáo phận; Đại Diện Tòa Thánh ở Bungari, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp và Pháp; Thượng Phụ Giáo Chủ Venice và cuối cùng, Giám Mục Rôma. Tuy nhiên, qua sự vâng phục này, Roncalli, trong tư cách linh mục rồi Giám mục, cũng đã sống một sự trung thành sâu xa, mà ta có thể gọi là, như ngài đã từng nói, sự phó thác vào Thiên Chúa Quan Phòng. Ngài luôn nhìn nhận trong đức tin rằng qua lối sống theo cách này, dường như được dẫn dắt bởi người khác chứ không theo sở thích hoặc dựa trên sự nhạy cảm thiêng liêng của chính mình, Thiên Chúa đang phác hoạ một kế hoạch của riêng Người. Ngài là con người quản trị, người lãnh đạo. Nhưng ngài là một nhà lãnh đạo được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, bởi sự vâng phục. 

Qua sự phó thác hàng ngày cho thánh ý Chúa, Giáo Hoàng Gioan tương lai đã sống ngày càng sâu xa hơn một cuộc thanh tẩy cho phép ngài hoàn toàn từ bỏ chính mình và bám chặt vào Đức Kitô. Chính theo cách này mà ngài làm cho sự thánh thiện toả sáng, sự thánh thiện mà Hội Thánh sau này đã chính thức nhìn nhận. Đức Giêsu nói với chúng ta: "Bất cứ ai mất mạng sống mình vì thầy thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Lc 9, 24) Đây là nguồn mạch đích thực của sự tốt lành của Đức Giáo Hoàng Gioan, của sự bình an mà ngài đã gieo vãi trên khắp thế giới. Chính nơi đây mà cội rễ của sự thánh thiện của ngài được tìm thấy: trong sự vâng phục theo tin mừng của ngài.

Đó là bài học cho mỗi một người chúng ta, nhưng cũng cho Hội Thánh trong thời đại chúng ta: Nếu chúng ta để mình được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, nếu chúng ta có thể chết đi cho tính ích kỷ để dọn chỗ cho tình yêu Chúa và Thánh ý Người, chúng ta sẽ tìm thấy sự bình an, chúng ta sẽ là những người xây dựng bình an và sẽ lan toả bình an chung quanh chúng ta. Nửa thế kỷ sau cái chết của ngài, sự hướng dẫn khôn ngoan và đầy tình phụ tử của Đức Giáo Hoàng Gioan, tình yêu của ngài đối với truyền thống của Hội Thánh và ý thức về nhu cầu đổi mới không ngừng, trực giác tiên tri khi triệu tập công đồng Vatican II và sự dâng hiến cuộc sống của ngài cho sự thành công của công đồng, có giá trị như là cột mốc trong lịch sử Hội Thánh của thế kỷ hai mươi; và như là ngọn đuốc sáng cho hành trình đi về phía trước.