Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2022

Kỷ Niệm 110 Năm “Tuồng Sinh Nhựt” (1912 – 2022)

 23-12-2022

Như trước đây chúng tôi đã giới thiệu tác phẩm kịch “Tuồng Sinh Nhựt”, xuất bản vào năm 1912, nhà in Kuênot, Kontum. Đây là một trong trong bốn vở kịch nói bằng chữ Quốc ngữ sớm nhất được biên soạn và trình diễn tại Việt Nam, hiện còn lưu giữ tại Thư viện Quốc gia (x. https://giaophankontum.com/tin-tuc/giao-phan-kontum/tuong-sinh-nhut-nghe-thuat-kito-giao-trong-buoi-binh-minh-cua-san-khau-kich-viet-nam-va-hoi-nhap-van-hoa-tay-nguyen).

Năm 2022, kỷ niệm tròn 110 năm “Tuồng Sinh Nhựt” ra đời và được dàn dựng, biểu diễn (1912 – 2022), chúng tôi xin giới thiệu toàn bộ nội dung tác phẩm này. Rất mong các nhà nghiên cứu văn học và nghệ thuật cũng như các độc giả lưu tâm tìm hiểu, phân tích để cùng nhau góp phần gìn giữ và quảng bá văn học Kitô giáo trong việc loan báo Tin Mừng và đóng góp cho nền văn học Việt Nam nói chung.

Minh Sơn
23/12/2022

WGPKT(23/12/2022) KONTUM

Nguồn: WGPKT

Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2022

Phỏng Vấn Cha Phêrô Nguyễn Vân Đông, Nguyên Tổng Đại Diện GP. Kon Tum – Dịp Mừng 50 Năm Hồng Ân Linh Mục

17-12-2022

Nhân dịp cha Phêrô Nguyễn Vân Đông, nguyên Tổng đại diện giáo phận Kon Tum mừng kỷ niệm Kim Khánh Linh Mục (20.12.1972 – 20.12.2022),  Ban Mục vụ Truyền Thông có cuộc phỏng vấn cha Phêrô về sự kiện trọng đại này. 

Xin trân trọng giới thiệu cuộc gặp gỡ trao đổi thân tình với cha Phêrô, do cha Tađêô Võ Xuân Sơn, Trưởng Ban MVTT giáo phận Kon Tum thực hiện.

WGPKT(17/12/2022) KONTUM

Nguồn: Giáo Phận Kon Tum

Giáo Xứ Vinh Sơn Khánh Thành Nhà Thờ Mới – Sức Sống Đức Tin Mạnh Mẽ Và Mau Chóng

Ngày 15 tháng 12 năm 2022, trong bầu khí cận kề đại lễ Giáng Sinh, giáo xứ Vinh Sơn, thuộc giáo hạt Mang Yang lại có một niềm vui to lớn, đó là khánh thành ngôi nhà thờ mới của giáo xứ, tọa lạc tại thôn Ia Klai, xã Ia Băng, huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai. Nhà thờ được xây dựng để dâng kính thánh Stêphanô, tử đạo tiên khởi – cũng là bổn mạng của giáo xứ, mừng vào ngày 26/12 hàng năm.

Thoạt nghe nhiều người không khỏi thắc mắc: vì sao tên gọi của giáo xứ là Vinh Sơn, mà bổn mạng giáo xứ lại là thánh Stêphanô? Thưa Vinh Sơn đây có ý nghĩa “giáo dân gốc giáo phận Vinh đến làm ăn lập nghiệp trên miền núi (Sơn) tại nơi đây thuộc giáo phận Kon Tum, chứ không liên quan gì đến thánh Vinh Sơn cả!

Và như vị đại diện Hội đồng Mục vụ đã cho biết đầu thánh lễ về lược sử hình thành và phát triển của giáo xứ, thì giáo dân nơi đây có nguồn gốc từ giáo phận Vinh thuộc tỉnh Hà Tĩnh, vì môi trường cuộc sống và để kiếm kế sinh nhai đã tới vùng đất này từ năm 1994, ban đầu chỉ có vài người. Qua thời gian số tín hữu ngày càng đông, đã qui tụ đọc kinh với nhau và được quý linh mục phụ trách giáo xứ Phú Thọ nâng đỡ, chăm sóc mục vụ và mua đất để xây nhà nguyện tạm (1998). Xóm giáo nhỏ bé Vinh Sơn hình thành và phát triển thành Giáo họ vào năm 2016, trực thuộc giáo xứ Phú Thọ. Ngày 02/07/2021, Đức Cha giáo phận quyết định thành lập Giáo xứ Vinh Sơn, và ngày 12/07/2021 giáo xứ đã khởi công xây dựng nhà thờ. Sau gần 2 năm thi công với bao nỗ lực của cha xứ và mọi thành phần trong cộng đoàn, cũng như sự góp sức của quý ân nhân xa gần, hôm nay mọi người vui mừng tề tựu về đây dâng thánh lễ tạ ơn và tham dự các nghi lễ làm phép nhà thờ mới.

Đúng 9 giờ 30 đoàn rước Đức Cha chủ tế và quý cha tiến đến trước tiền đường. Ngoài Đức Cha Aloisiô giám mục giáo phận, trong đoàn đồng tế còn có cha Tổng đại diện Giuse Đỗ Hiệu, quý cha Quản hạt, một số quý cha trong giáo phận.

Trước hết Đức Cha cử hành nghi thức làm phép chuông và 14 Chặng đàng Thánh giá. Những tiếng chuông đầu tiên ngân vang trong niềm vui mừng của toàn thể cộng đoàn hiện diện. Đức Cha, cha Tổng đại diện, cha quản xứ Giêrônimô Lê Đình Hùng tiến lên cắt băng khánh thành và đoàn đồng tế cùng cộng đoàn chính thức bước vào nhà thờ.

Thánh lễ tạ ơn khánh thành nhà thờ diễn ra trang nghiêm sốt sắng, với các nghi thức xen kẽ: làm phép nước rảy lên các tường nhà thờ, làm phép bàn thờ, thờ lạy và kiệu Mình Thánh Chúa lên nhà tạm…

Trong bài giảng Đức Cha nhìn nhận sự phát triển mau chóng của giáo họ Vinh Sơn trước đây và nay là giáo xứ Vinh Sơn qua 28 năm hành trình đức tin, để hôm nay giáo xứ có ngôi nhà thờ mới khang trang, xinh đẹp. Nhà thờ là một công trình vật chất nhưng lại bao hàm một ý nghĩa thiêng liêng. Qua các bài đọc Kinh Thánh cho biết, nhà thờ tượng trưng cho cộng đoàn dân Chúa, tượng trưng cho Giáo Hội, tượng trưng cho Nhiệm Thể của Đức Kitô và cho bản thân của mỗi tín hữu. Vì thế Đức Cha mời gọi mọi người hãy siêng năng đến nhà thờ để được lãnh nhận các Bí tích và tham dự hiến tế tình yêu của Đức Kitô qua từng thánh lễ để thánh hóa bản thân, giáo xứ mình trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Vào cuối thánh lễ, cha quản xứ Giêrônimô Lê Đình Hùng đã nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa vì biết bao ân huệ và tình thương Chúa không ngừng tuôn đổ trên giáo xứ, đặc biệt cho công trình xây dựng nhà Chúa đạt tới hoàn thành. Cha tỏ bày tâm tình cảm ơn Đức Cha giáo phận, quý Đức Cha, cha Tổng đại diện và quý cha đồng tế, quý cha tiền nhiệm còn sống hay đã qua đời, quý nam nữ tu sĩ, quý các cấp chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, quý ân thân nhân xa gần và toàn thể cộng đoàn. Cha cũng cho biết giáo xứ mới hoàn thành được công trình chính yếu, còn nhiều hạng mục khác cần thiết cho một giáo xứ mới thành lập để có thể phục vụ hữu hiệu cho cộng đoàn, và ước mong sự tiếp tục thương yêu giúp đỡ của mọi người.

Sau thánh lễ, Đức Cha, quý cha chụp bức hình lưu niệm và cùng với quý ân nhân, quý khách dùng bữa cơm trưa thân tình do giáo xứ khoản đãi.

Về dự thánh lễ tạ ơn khánh thành nhà thờ mới Vinh Sơn hôm nay, với khung cảnh vui tươi rộn ràng chuẩn bị lễ Giáng Sinh: Hang đá Chúa Hài Đồng, quang cảnh trang trí đón mừng đại lễ…, chúng ta cảm nhận được sức sống mạnh mẽ và mau chóng mà giáo xứ non trẻ này đang từng ngày làm thay da đổi thịt vùng quê nơi đây, và lan tỏa niềm tin Chúa Kitô đến cho anh chị em chung quanh.

 

Hoa Núi

Ảnh: Ban MVTT GP Kon Tum

WGPKT(16/12/2022) KONTUM

Nguồn: Giáo Phận Kon Tum

Thứ Tư, 14 tháng 12, 2022

Thánh Lễ An Táng Cha Cố Đaminh Trương Bảo Tâm 14.12.2022

 

Như ngọn nến cháy tiêu hao đến giọt cuối cùng rồi lịm tắt, vào lúc 22 giờ Chúa nhật ngày 11 tháng 12 năm 2022, cha Đaminh Trương Bảo Tâm đã an nghỉ trong Chúa tại Tòa Giám Mục Kon Tum, sau hành trình 88 năm dương thế và 54 năm linh mục.

Chương trình kính viếng và nhiều thánh lễ đã được Đức cha, quý cha cử hành tại Nhà Nguyện Trung tâm Mục vụ Giáo phận – nơi quàn thi hài cha cố, với sự hiệp thông của cộng đoàn các giáo xứ, chủng sinh, ứng sinh yao phu, bà con linh tông huyết tộc của cha cố.v.v. để cầu nguyện cho linh hồn ngài trong bầu khí ấm cúng, thành kính và đầy tiếc thương của toàn thể gia đình giáo phận.

Vào lúc 19 giờ 30 Thứ Hai ngày 12 tháng 12 năm 2022 nghi thức Tẫn liệm do Đức Cha Aloisiô chủ sự với sự hiện diện của cha Tổng đại diện, quý cha, quý nam nữ tu sĩ, gia đình linh tông huyết tộc của cha cố và các thành phần giáo dân quây quần chung quanh linh cửu của ngài. Sau đó thánh lễ đồng tế do cha Tổng đại diện Giuse Đỗ Hiệu chủ tế.

Và hôm nay ngày 14 tháng 12 năm 2022, giáo phận đưa tiễn cha cố Đaminh đến nơi an nghỉ cuối cùng trong Thánh lễ An táng tại Nhà thờ Chính tòa – ngôi nhà chung của giáo phận.

07 giờ sáng, nghi thức di quan từ Trung tâm Mục vụ (TGM) sang Nhà thờ Chính tòa, và vào lúc 08 giờ, Thánh lễ An táng cha cố Đaminh do Đức Cha Aloisiô Nguyễn Hùng Vị, Giám mục Giáo phận Kon Tum chủ tế đã được cử hành với sự đồng tế của linh mục đoàn trong và ngoài giáo phận; quý thầy phó tế, quý tu sĩ nam nữ, chủng sinh; gia đình, thân nhân, bạn hữu của cha cố và đông đảo giáo dân Kinh – Thượng tham dự.

Trước tiên, cha thư ký Tòa Giám mục đọc đôi nét tiểu sử của cha cố Đaminh Trương Bảo Tâm.

Mở đầu thánh lễ, Đức cha nói sự ra đi của cha Đaminh đã để lại rất nhiều thương tiếc cho mọi người, là một mất mát cho gia đình, và mời gọi cộng đoàn cùng dâng thánh lễ tiễn biệt cha cố đồng thời cầu nguyện cho ngài, xin Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đón nhận cha cố vào vương quốc trên trời.

Chia sẻ trong phần giảng lễ, Đức cha kể lại câu chuyện hi hữu đã xảy ra với cha Đaminh cách đây 38 năm, vào năm 1984, khi đó mọi người tưởng cha đã chết, giáo xứ cha coi sóc là giáo xứ Phương Quý đã chuẩn bị quan tài, đã dâng lễ cầu hồn và khóc thương cha. Số là lúc đó cha có công việc đi xe đò vào Sài Gòn, cha ngồi trên ca-bin, và chuyến xe đó gặp tai nạn, người ta báo cho biết người ngồi trên ca-bin đã chết! Tuy nhiên trên đường đi, vì tránh ngồi gần cửa gió cha đã đổi chỗ cho người ngồi băng ghế sau. Vì vậy mà lúc đó cha chưa chết! Và hôm nay cha Đaminh đã chết thật, vì tuổi già sức kiệt, như ngọn đèn cạn dầu.

Qua các bài đọc Kinh Thánh trong thánh lễ, Đức cha chia sẻ về thân phận của con người, trước sau gì rồi ai cũng phải chết, điều quan trọng là khi còn sống mình phải sống sao cho nên công chính. Nhìn lại cuộc đời của cha Đaminh, cha cố đã sẵn sàng sống cho Chúa và cũng sẵn sàng chết cho Chúa. Đi đến nơi đâu, phụ trách giáo xứ nào, cha cũng lo xây dựng nhà thờ, nhà giáo lý, cũng như chăm sóc nuôi dưỡng các ơn gọi, giúp đỡ những con cái thiêng liêng của mình…Những hy sinh công sức và những mối lo toan đó cho thấy cha đã sống thân phận của hạt lúa mì mà Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm: hạt lúa phải chết đi mới sinh được nhiều bông hạt.

Thánh lễ tiếp tục diễn ra trong bầu khi trang nghiêm, sốt sắng và ấm cúng.

Cuối thánh lễ, cha Tổng đại diện Giuse Đỗ Hiệu chủ sự nghi thức tiễn biệt.

Cha Lu-y Nguyễn Quang Vinh đại diện linh mục đoàn giáo phận Kon Tum đã xúc động nói lời từ biệt cha Đaminh, người anh em linh mục đã ra đi trước để lại nhiều gương sáng cho hàng linh mục, tu sĩ và giáo dân. Xin kính bái từ biệt và cầu cho linh hồn cha được ở bên Chúa như lòng hằng mong ước.

Sau cùng, cha Phanxicô Trần Anh Duy thay mặt cho gia đình linh tông huyết tộc tỏ bày tâm tình cảm ơn Đức cha Aloisiô giám mục giáo phận, cảm ơn quý Đức cha Phêrô và Đức cha Micae nguyên giám mục giáo phận, không quên nhớ đến quý Đức cha tiền nhiệm đã qua đời, từng thương đón nhận, đồng hành cùng cha cố Đaminh trong hành trình sứ vụ linh mục; cảm ơn cha Tổng đại diện, tất cả quý cha và mọi thành phần trong cộng đoàn dân Chúa; ban tổ chức lễ tang, các ban ngành, đoàn thể đã góp công sức chung lo lễ tang của cha cố Đaminh được chu đáo, tốt đẹp.

Tại Nghĩa trang dành cho linh mục, tu sĩ giáo phận Kon Tum, Đức Cha Aloisiô đã cử hành nghi thức cuối cùng tại phần mộ cho cha Đaminh. Trước giây phút hạ huyệt và thả nắm đất tiễn biệt, mọi người đều bùi ngùi, tiếc thương nhưng cũng cảm thấy trào dâng niềm tin yêu trông cậy vì trọn cuộc đời cha Đaminh đã dâng hiến cho Chúa, thì tin tưởng chắc chắn Chúa sẽ đón nhận cha vào quê hương vĩnh cửu trên trời.

Minh Sơn – Vương Trị
Ban MVTT GP Kon Tum

Nguồn: Web Giáo phận Kon Tum

Nghi thức Tẫn liệm do Đức Cha Aloisiô chủ sự
Nghi thức Tẫn liệm

Lễ Đặt Viên Đá Xây Dựng Nhà Thờ Kon Trang Mơnây – Một Dấu Ấn Lịch Sử Truyền Giáo

 

Ngày 12 tháng 12 năm 2022 là một ngày vui mừng trọng đại cho giáo xứ Kon Trang Mơnây, thuộc giáo hạt Đăk Hà, giáo phận Kon Tum, khi cộng đoàn giáo xứ hân hoan đón chào Đức Giám mục giáo phận, cha Tổng đại diện, quý cha, quý tu sĩ nam nữ, quý ân thân nhân và quý khách xa gần về với giáo xứ để hiệp dâng thánh lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng ngôi nhà thờ mới.

Lần giở lại những trang lịch sử truyền giáo thời kỳ đầu, vào năm 1851, Trung tâm Truyền Kon Trang ở phía Bắc Kon Tum là một trong bốn TTTG đầu tiên được các linh mục thừa sai thành lập nên cho các sắc dân Sêđăng, Bahnar, Rơngao, Jrai…, và làng Kon Trang Mơnây tòng giáo năm 1896. Trải qua thời gian phát triển với những thăng trầm, vào những năm 1920 của thế kỷ XX, Kon Trang Mơnây trở thành địa sở trung tâm trong toàn vùng gồm nhiều họ đạo Kinh – Thượng. Những biến động thời cuộc trong giai đoạn kế tiếp đã đưa đến nhiều  đổi thay, nhưng địa sở vẫn đứng vững và phát triển. Cho đến ngày nay, với đà lớn mạnh chia tách thành nhiều giáo xứ khác nữa, giáo xứ Kon Trang Mơnây vẫn giữ nguyên vai trò của một trung tâm truyền giáo, nối kết các giáo xứ, các họ, làng đạo trong giáo hạt Đăk Hà, sống chứng tá loan báo Tin Mừng tình thương của Chúa cho tất cả mọi người.

Đã từ rất lâu rồi, giáo xứ mong ước có một nơi rộng rãi, xứng đáng hơn để anh chị em sắc tộc nơi đây qui tụ thờ phượng Thiên Chúa. Và niềm mong đợi ấy hôm nay dần trở thành hiện thực.

Thánh lễ tạ ơn đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ bắt đầu vào lúc 9 giờ 30, qui tụ rất đông đảo mọi thành phần dân Chúa trong và ngoài giáo xứ, trong cũng như ngoài giáo phận.

Đức Cha Aloisiô mời gọi cộng đoàn hiện diện dâng thánh lễ này sốt sắng để xin Thiên Chúa chúc lành cho công trình xây dựng và cho có nhiều người cộng tác giúp đỡ, cùng với nỗ lực của giáo xứ, để công trình nhà thờ sớm hoàn thành. 

Sau công bố Tin Mừng, Đức Cha chia sẻ việc một ngôi nhà thờ được xây dựng nên đó là một điều tốt đẹp. Nhà thờ tượng trưng cho Giáo Hội, nơi đó các tín hữu sinh hoạt với nhau, lắng nghe Lời Chúa, cử hành các bí tích và lễ nghi tôn thờ Thiên Chúa. Qua các bài đọc Lời Chúa cho thấy Giáo Hội là ngôi nhà của Thiên Chúa, mà Giáo Hội là Thân Thể Mầu Nhiệm của Đức Kitô, cho nên mỗi tín hữu là một viên đá sống động xây nên tòa nhà Giáo Hội trên nền móng các Tông đồ, trong đó Đức Kitô là viên đá góc giữ cho tòa nhà được đứng vững. Vì vậy, Đức cha kêu mời cộng đoàn giáo xứ Kon Trang Mơnây, qua việc xây dựng nhà thờ này, luôn tích cực sống đức tin bằng các nỗ lực cụ thể trong đời sống đạo của mình, để loan báo Tin Mừng  cho những người chưa biết Chúa ở trong vùng này.

Tiếp theo, cha Tổng đại diện công bố văn thư cho phép xây dựng nhà thờ. Đức Cha cử hành nghi thức làm phép diện tích nhà thờ mới và làm phép viên đá móng.

Sau lời nguyện kết lễ, cha Đaminh Trần Văn Vũ, chính xứ Kon Trang Mơnây thay mặt cộng đoàn nói lên tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương đã luôn chăm sóc, gìn giữ và ủi an cộng đoàn dân Chúa trong suốt chiều dài lịch sử 170 năm qua. Cha tỏ bày lòng biết ơn đối với các vị thừa sai, các bậc tiền nhân, các cha sở tiền nhiệm…đã gieo trồng và vun xới hạt giống đức tin để giáo xứ có được như ngày hôm nay. Tiếp đến cha cảm ơn Đức Giám mục giáo phận, cha Tổng đại diện, quý cha đồng tế, quý cha phụ trách các ban ngành; quý tu sĩ nam nữ, quý chính quyền các cấp, quý ân thân nhân xa gần và toàn thể mọi thành phần đã cộng tác trước đây cho đến nay, cũng như trong tổ chức thánh lễ hôm nay được tôn nghiêm, tốt đẹp.

Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2022

Đến Hẹn Lại Lên Kính Viếng Mẹ

 

Thánh Mẫu Măng Đen, Mẹ miền cao

Tây Nguyên  rừng – mưa – gió rạt rào.

Mẹ giữa đại ngàn, ai có biết?

“Này là Mẹ con”, Chúa đã trao.

Dẫu tay Mẹ cụt, tràn ơn phước

Tin tưởng, cậy trông, con truyền rao.

Đến hẹn lại lên, kính viếng Mẹ

Giáo phận sum vầy vui xiết bao!

 

Vâng! Hôm nay ngày 09 tháng 12 năm 2022, ngày truyền thống Giáo phận Kon Tum mừng kính Đức Trinh Nữ Maria tại Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ Măng Đen. Nhớ lễ này năm ngoái, do còn ảnh hưởng của dịch covid-19, rất nhiều con cái Mẹ khắp nơi đành lỗi hẹn. Năm nay, hoàn cảnh đã cho phép có thể qui tụ đến bên Mẹ, nên đông đảo tín hữu nô nức hành hương về Đền thánh Đức Mẹ Măng Đen để tạ ơn Thiên Chúa vì biết bao ơn lành Chúa đã thương ban – qua đôi cánh tay của người Mẹ nhân hiền.

Cái thời tiết cố hữu của vùng Măng Đen, Kon Plông vào cuối đông, với khí trời se lạnh và thường có mưa kèm những cơn gió rừng cũng không thể cản bước đoàn con lũ lượt tuốn về bên Mẹ. Ngay chiều hôm trước (08/12) đã có nhiều đoàn hành hương, nhóm, cá nhân người Kinh, người Thượng bằng các phương tiện ô-tô, xe máy, kể cả đi bộ…hàng chục cây số để kịp đến dự lễ. Họ trải qua đêm gần bên linh đài của Mẹ, trong nhà thờ, nhà nguyện, hay trong những lều bạt dựng tạm, cùng chung một tâm tình hướng về Mẹ kính yêu, rước kiệu với lời kinh tiếng hát, với tràng hạt Mân Côi không ngớt tôn vinh Mẹ.

Ban tổ chức cũng đã hết sức cố gắng trong nhiều ngày qua, vượt lên trên điều kiện thời tiết bất lợi để chuẩn bị cho kỳ lễ được chu đáo.       

Đúng 9g30 ngày 09/12/2022, Thánh lễ trọng thể kính Đức Maria Vỗ Nhiễm Nguyên Tội được cử hành, do Đức Cha Aloisiô, Giám mục Giáo phận Kon Tum chủ tế; cha Tổng đại diện, quý cha Quản hạt, cha Quản nhiệm TTHH Đức Mẹ Măng Đen, quý cha Bề trên, quý cha trong và ngoài giáo phận đồng tế. Hiện diện hiệp dâng thánh lễ có đầy đủ mọi thành phần dân Chúa gồm các tu sĩ nam nữ, chủng sinh, Yao phu – Kõ khul, giáo dân, có rất nhiều anh chị em bệnh phong, người khuyết tật.v.v.

Mở đầu thánh lễ, Đức Cha Aloisiô mời gọi toàn thể cộng đoàn cảm tạ ơn Thiên Chúa đã cho giáo phận có địa điểm Măng Đen này để mọi người bất kể lương giáo có thể đến đây tôn vinh Mẹ, tìm an ủi nơi Mẹ và xin Mẹ cầu bầu, cứu chữa. Đặc biệt, các anh chị em bệnh phong và khuyết tật sẽ được an ủi rất nhiều khi nhìn lên Đức Mẹ Măng Đen. Mừng kính Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Cha nguyện chúc các tín hữu biết noi gương bắt chước các nhân đức của Đức Mẹ, và dâng ý lễ cầu nguyện cho mọi nhu cầu của tất cả mọi người.

Cha Lu-y Gonzaga Nguyễn Quang Vinh, quản hạt Pleiku chia sẻ Lời Chúa với cộng đoàn. Qua các bài đọc phụng vụ đều đưa đến “những điểm khởi đầu”: Khởi đầu công trình sáng tạo và lời hứa cứu độ (Bài đọc 1); khởi đầu nơi con người được chọn làm con Thiên Chúa (Bài đọc 2); và khởi đầu nơi người phụ nữ được chọn để cưu mang Chúa Cứu Thế (Bài Phúc Âm), cha Lu-y lượt qua lịch sử cứu độ từ sự khởi đầu trong Cựu ước đều tốt đẹp, nhưng thế lực Sự Dữ là tội lỗi đã xâm nhập tìm cách phá hỏng công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Tuy vậy, lòng thương xót của Thiên Chúa đã dung hòa được sự công minh và sự bao dung tha thứ của Người. Chính Đức Giêsu, người con được sinh ra bởi người phụ nữ Do thái tên là Maria, thuộc dòng giống nhân loại sẽ thực hiện lời hứa chiến thắng Xa-tan cùng Sự Dữ.

Với đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội mà Mẹ đã được lãnh nhận từ Thiên Chúa, chính đặc ân này đã dẫn đưa Đức Mẹ đón nhận những đặc ân tuyệt vời khác: làm Mẹ Thiên Chúa, được ơn Đồng Trinh và được Lên Trời cả hồn lẫn xác. Cả bốn đặc ân này là bốn tín điều chói sáng về Đức Maria.

Cha Lu-y tiếp tục chia sẻ: Phải thú nhận có một thực tại tội lỗi nơi chính mỗi con người, bởi vì bản chất con người vốn yếu đuối và có khuynh hướng nghiêng về sự dữ. Chỉ có ơn Chúa mới làm cho con người nên sạch tội. “Chúng ta được một chút hao hao như Mẹ Vô Nhiễm là do ân sủng Thiên Chúa. Cha đề nghị một thực hành cụ thể có thể làm cho người tín hữu nên giống Mẹ tinh tuyền trong sạch: đó là siêng năng đến với tòa Giải tội, “nơi đó khơi lại sự trong sạch cho tâm hồn và làm cho chúng ta phần nào đó nên giống Mẹ Vô Nhiễm”. Và cha Lu-y kết thúc bài giảng với lời nguyện xin cho mọi tín hữu dù không được tinh tuyền như Mẹ thì cũng biết năng chạy đến với suối nguồn ơn tha thứ để nên giống Mẹ nhiều hơn.

Thánh lễ tiếp tục diễn ra trang nghiêm sốt sắng, mặc dù có lúc trời tạnh hẳn, có lúc trời mưa lất phất. Những chiếc dù in hình ảnh Đức Mẹ Măng Đen màu xanh được xòe lên và mọi người như xích lại gần nhau hơn.


Thứ Hai, 5 tháng 12, 2022

Nhân tìm được 21 chương đầu Lập quốc kinh, cùng tìm kiếm toàn bộ tác phẩm Sấm truyền ca

 


TIN VUI VỀ VĂN HỌC CÔNG GIÁO

NHÂN TÌM ĐƯỢC 21 CHƯƠNG ĐẦU LẬP QUỐC KINH
CÙNG TÌM KIẾM TOÀN BỘ TÁC PHẨM SẤM TRUYỀN CA

Lm. Trăng Thập Tự
Quy Nhơn, 03-12-2022

Lời thưa

SẤM TRUYỀN CA là bộ sách diễn thơ lục bát năm quyển đầu của Kinh Thánh Cựu Ước, do linh mục Lữ Y Đoan (1613-1678) thực hiện trước năm 1670, cách nay 350 năm hơn. Sách viết bằng chữ Nôm và năm 1820 được chuyển sang chữ quốc ngữ. Sách hay cả về văn chương, tư tưởng và đạo lý, đồng thời rất đáng giá về mặt văn học vì ra đời trước truyện Kiều của cụ Nguyễn Du đến 150 năm. Tiếc là suốt 350 năm đầu sách chưa hề được in, chỉ được chép tay truyền lại giữa tình cảnh bị bách hại, dễ bị mai một. Hầu như 2/3 bộ sách đã biến mất đến độ hiện nay ta chưa biết ba quyển sau (Lêvi, Dân số và Đệ nhị luật) được gọi tên thế nào. Ta chỉ còn giữ được quyển đầu, Sáng thế ký, với tên gọi là Tạo Đoan Kinh với đủ 50 chương. Quyển thứ hai, Xuất hành, được dịch là Lập quốc kinh, chỉ còn 21 chương, vừa tìm lại được đúng vào chiều vọng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, 23-11-2022 vừa qua.

Trong niềm vui tìm lại được 21 chương Lập quốc kinh, mời quý độc giả đọc bài chia sẻ dưới đây cùng mấy bài đi kèm và quan tâm góp phần tìm kiếm toàn bộ 5 phần bản thảo của bộ Sấm truyền ca quý hiếm. Theo cái nhìn bình thường thì hầu như không sao còn tìm được, nhưng có lời Chúa Giêsu đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7,7-8).

Hình như, trong lời bầu cử của Các Thánh Tử Đạo Tại Việt Nam, Thiên Chúa đang chờ chúng ta xin, tìm và gõ cửa để ban tặng cho chúng ta món quà đầy ý nghĩa cho công cuộc loan báo Tin mừng trên quê hương yêu dấu. Xin mến chúc mọi người và mọi gia đình luôn an vui hạnh phúc trong Chúa.

Tôi biết đến tựa đề quyển Sấm truyền ca của Lm. Lữ Y Đoan (1613-1678) vào khoảng năm 1993, khi cụ Hoàng Xuân Việt và một vài vị khác lên Đà Lạt trình bày cuộc phát hiện tác phẩm này với Đức cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm. Lúc ấy tôi đang ngụ ở Dòng Don Bosco. Tôi rất thích khi một người bạn kể lại cách diễn ý tên nguyên tổ A-đam thành A-dang, tức A-dương nghĩa là nhảy vào ánh sáng, tên tháp Ba-bel được diễn dịch là Hỗn Lầu. Đọc mấy tờ photocopy anh ấy trao, tôi cứ tự hỏi lẽ nào lục bát của thế kỷ XVII lại trong sáng với những từ mới mẻ và rõ nghĩa đến vậy? Thế nhưng tôi cũng chẳng có lý do gì để nghi ngờ tính lịch sử của bản văn. Tôi thấy tiếc vì không được đọc toàn văn và lúc ấy cũng không hề nghĩ sẽ có ngày tập thơ được in ra. Mãi đến giữa năm 2020, khi lục tìm trên mạng Internet những bài viết về văn học Công giáo Việt Nam, tôi mới biết tác phẩm đã được ấn hành tại Canada, năm 2000.

1. TIẾNG VIỆT THUẦN VIỆT

Sự kinh ngạc của tôi được Giáo sư Antôn Nguyễn Văn Trung giải đáp trong một tiểu luận chưa in, tựa đề “Đọc Sấm truyền ca của Lữ Y Đoan”. Ở đoạn “Hình thức diễn tả và nội dung”, ông viết:

“Có thể Lữ Y Đoan không thắc mắc gì về những khó khăn liên quan đến việc dịch vì ông đã tìm ra hướng dịch khi viết Sấm truyền ca. Chính Thiên Chúa đã tôn trọng điều kiện nói với ai thì dùng tiếng nói của người đó. Thiên Chúa đã nói với loài người qua các tiên tri bằng ngôn ngữ của các sắc dân Do Thái, sau đó còn sai Con Một xuống thế "làm người và ở giữa chúng ta" cùng nói với những người chung quanh, những đám đông bằng ngôn ngữ của họ, sau cùng là lời khuyên của Thánh Phaolô: "Do Thái với người Do Thái, Hy Lạp với người Hy Lạp".

Như vậy, Lữ Y Đoan là người Việt Nam, đương nhiên nói tiếng Việt, dùng văn hóa Việt với người Việt. Đơn giản chỉ có thế.

Không phải chỉ Lữ Y Đoan, mà những người đầu tiên rao giảng đạo Chúa từ thế kỷ XVII cũng đều phải nói tiếng Việt, theo tinh thần, văn hóa của người Việt, cho người Việt hiểu. Hai kinh quan trọng được dịch là "Kinh Lạy Cha" và kinh "Kính Mừng". Tiếng Việt không có lối gọi trống trơn, bao giờ cùng phải bày tỏ thái độ đối với người mình nói với. Đối với Thiên Chúa, là đấng Tạo Hoá phải tin thờ, thêm từ lạy (Lạy Cha). Đối với Đức Mẹ, dù là mẹ Chúa Cứu Thế, cũng chỉ là một thụ tạo nên chỉ Kính thôi và do đó thêm từ Kính. Lời chào của Thiên Thần thực ra là một lời mừng, một tin vui, nên dịch là Mừng thêm từ Kính (Kính mừng Maria). Trong Sấm Truyền Cũ (Bản in Tân Định 1890) Adong Eva được gọi là ông Adong bà Eva. Nhưng chương sau nói về Cain, Abel thì gọi "Thằng Cain giết ông Abel", mặc dầu Abel là em, nhưng lại là người tốt lành nên đáng trân trọng.

Nói chung, Lữ Y Đoan cũng như các tác giả khác ở thế kỷ XVII đều đã dùng tiếng Việt thuần Việt để chuyển dịch kinh sách đạo sang tiếng Việt. Nhưng trong Sấm truyền ca, Lữ Y Đoan đã bạo dạn hơn, triệt để hơn trong việc đưa toàn bộ lối diễn tả Việt Nam vào việc chuyển dịch Kinh thánh ra tiếng Việt.

2. 350 NĂM SẤM TRUYỀN CA

Khi chúng tôi biết bên Canada đã in Sấm truyền ca, thì năm 2020 đã trôi tới tháng Sáu. Anh em trong Ban mục vụ Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn chúng tôi thấy cần cấp tốc tái bản quyển sách cho độc giả tại Việt Nam được biết trước khi năm thứ 350 của tác phẩm này qua đi. Rất may, chúng tôi đã kịp tìm được một bản photocopy, tại thư viện dòng Đa Minh ở Gò Vấp, và một bản in tại dòng Mân Côi, Bùi Chu. Chúng tôi theo đó để xây dựng lại bản thảo và vào buổi tối cuối năm 2020, ấn bản Nước Mặn của quyển sách đã kịp chào đời “lấy ngày” trong buổi họp mặt ra mắt Ban mục vụ Văn thơ Công giáo giáo phận Hà Tĩnh tại nhà xứ An Nhiên, Tp. Hà Tĩnh.


Bìa Sấm truyền ca, ấn bản Tủ sách Nước Mặn 2020

3. TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

Trong ấn bản Canada năm 2000, tại “mấy lời nói đầu”, nhà báo Nguyễn Văn Nhạn viết vào năm 1956:

"Theo truyền khẩu, bổn Sấm truyền ca nầy do linh mục Louis Đoan (thầy cả Lữ Y Đoan) viết ra lối năm 1670.

Ngài là một nhà thông thái Hán học, gia nhập đạo Công giáo lúc thiếu thời và tình nguyện làm thầy giảng buổi sơ khai Công giáo Đàng Trong. Ngài viết nhiều tập thơ về giáo lý, giúp bổn đạo dễ bề học hỏi. Trong số đó, có bổn Sấm truyền ca rất công phu, ngài viết theo thể thơ lục bát là loại văn chương bình dân thời đó.

Ngài đúc kết theo cảm nghĩ và hiểu biết của dân tộc Á đông; vì đó người ta nhận thấy bổn Sấm truyền ca là một hòa đồng văn hóa Á đông và Kitô giáo. Hạng văn nho thời đó mến phục và thích đọc tác phẩm này, cũng có một số người trí thức đã xin theo Công giáo.

Lúc già trên 60 tuổi, nhận thấy tài đức và lòng nhiệt thành, nên đức Vít-vồ Lâm Biên Mộc (Đức cha Lambert de la Motte) giám mục Địa phận Đàng Trong đã phong chức linh mục cho ngài, tại Kẻ Chàm (Cacham) thuộc vùng Quảng Ngãi năm 1676.

Bổn Sấm truyền ca của ngài, đã bị các linh mục ngoại quốc thời đó chống đối, viện lẽ đã pha trộn nhiều tư tưởng ngoại giáo. Dầu sao cũng có người gìn giữ và khi chạy nạn cơn bắt đạo thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) ra lịnh cấm đạo Công giáo rất nhặt năm 1701, họ đã mang theo vào đất Đồng Nai.

Sống len lỏi với thổ dân, tìm nơi hoang địa hợp nhau khai phá đất đai lập nghiệp sinh sống, theo cái thế da beo: Việt đông thổ rút, Việt rút thổ đông, chịu đựng biết bao gian lao khổ cực để sống và giữ đạo cách âm thầm.

Đến năm 1757, chúa Nguyễn Phúc Khoát hoàn toàn làm chủ vùng Thủy Chân Lạp (miền lục tỉnh) và phân khu hành chánh. Bấy giờ nhiều làng xã người Việt kê khai lên bản đồ đất nước, đồng thời các vùng Công giáo cũng ra mặt như Cái Mơn, Cái Nhum, Mặc Bắc, Bãi Giồng... là những vùng đa số là người Công giáo.

Bổn Sấm truyền ca còn được tìm thấy ở Cái Nhum, Cái Mơn thuộc Long Hồ dinh (hiện nay, 1956, thuộc tỉnh Bến Tre). Có người viết ra chữ quốc ngữ từ bổn gốc chữ nôm, và đã được chuyền tay nhau chép lại và phổ biến rất hạn chế, vì lẽ quá dài và ít người có đủ khả năng về văn hóa giữa thời Hán, Nôm và chữ quốc ngữ đang tranh giành chỗ đứng dưới chế độ Pháp thuộc tại Nam Kỳ.

… Lúc nhà in Công giáo của địa phận Sài Gòn mới thành lập tại nhà thờ Tân Định (Sài Gòn), nhiều giáo hữu và linh mục nhiệt tâm muốn xuất bản tác phẩm này nhưng qua nhiều lần thảo luận, không đi đến kết quả, vì hai lý do:

Vì chi phí quá nặng đối với nhà in còn nghèo, số vốn xuất bản không được đức Giám mục sở tại trợ cấp. Kế đó, do ý kiến các linh mục Pháp không đồng ý, vì e bản dịch Sấm truyền ca không lột hết ý nghĩa của Kinh thánh theo bản Vulgata.

Khoảng năm 1920-1930, tại Sài Gòn có nhiều báo chí Công giáo do giáo dân đảm trách, như nhựt báo Công giáo Đồng thinh của Đoàn Kim Hướng; tuần báo Công giáo tiến hành của Đoàn Công Chánh; tuần báo Dân Nam của Tô Đức Thế; tuần báo Dân Hiệp của Nguyền Cang Thường... và báo Nam kỳ Địa phận là tờ liên lạc thông tin của Tòa Giám mục Sài Gòn do linh mục lãnh đạo, đã xuất bản từ đầu thế kỷ XX. Trong thời gian nầy, theo lời Paulus Tạo, ký giả Công giáo đang giúp tuần báo Nam kỳ Địa phận (Nhà thờ Tân Định, Sài Gòn) thì ông Trần Hớn Xuyên (họ đạo Cái Mơn, Bến Tre) đã giao tận tay ông bổn Sấm truyền ca và yêu cầu có thể xuất bản hoặc đăng tải từng phần trên báo chí Công giáo, nếu có thể được.”

4. TRUY TẦM LẬP QUỐC KINH

Lo việc chế bản, càng đọc quyển Sấm truyền ca, càng mê, tôi khao khát có được bản văn 21 chương đầu của Lập quốc kinh để thưởng thức, và hơn nữa, để in ra nhằm bảo tồn.

Tôi suy rằng Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã photocopy các bản thảo Tạo đoan kinh và Lập quốc kinh của Sấm truyền ca , gửi tặng đến những vị đồng tác giả có bài trong quyển Về sách báo tác giả Công giáo thế kỷ XVII-XIX. Tôi tìm địa chỉ tất cả những tác giả còn sống hoặc người nhà của các vị, và hỏi thăm nhưng không ai còn giữ được những tài liệu ấy.

Tại Canada, nhà nghiên cứu Nguyễn Vy Khanh giúp hỏi nhóm biên tập Tập san Y Sĩ, cơ quan đã xuất bản quyển Sấm truyền ca. Ở tòa soạn tập san ấy cũng không còn dấu vết nào của bản thảo Lập quốc kinh.

Đầu tháng 8/2021, ông Khanh đích thân đi thăm Giáo sư Nguyễn Văn Trung và cho biết: “Tuần trước con đã ghé thăm Gs. Nguyễn Văn Trung và đã xem lại toàn bộ tài liệu và sách báo của Gs. Trung. Gs. Trung nay trí nhớ không như trước, nên khi hỏi, Gs. cho biết đã đưa hết các bản chụp và tài liệu cho nhóm ông Lê Phụng và Tập san Y Sĩ, như con đã cho Cha biết. May vẫn còn văn bản “Đọc Sấm Truyền Ca Của Lữ Y Đoan” Giáo sư đã giao cho ông Lê Phụng nhưng không được in lại, nay Gs. giao cho con. Con sẽ photocopy gửi bưu điện cho Cha - 22 trang chữ đánh máy nhỏ.” (Thư 13/8/2021)

Tôi cũng theo chân bộ tài liệu liên quan tới Sấm truyền ca để xin quý Bề trên và nhân viên thư viện các Tòa giám mục Đà Lạt, Sài Gòn hoặc Thanh Hóa tìm giúp nhưng không thấy dấu vết nào.

Còn một địa chỉ cuối cùng là kệ sách của cố Giáo sư Trần Thái Đỉnh. Tôi viết thư đến thứ nam của cụ là Lm. Trần Đức Quý, và nhận được câu trả lời: còn hơn một năm nữa cha mới về Việt Nam thăm nhà – vào dịp Giáng sinh 2022.

5. GẤP NGÀN LẦN MƠ ƯỚC

Ngày 22/11/2022 cha Quý về tới Việt Nam. Chiều vọng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, 23/11/2022, lúc 15g00, tôi nhận được điện thoại, và qua FaceTime, tôi được nhìn thấy cha Quý cầm một bản sao quyển Sấm truyền ca do ông Nguyễn Văn Nhạn chép tay, phần cuối có chép 21 chương của Lập quốc kinh.

“Xin tôn vinh Thiên Chúa là “Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới” (Ep 3,20).

Bản photocopy từ kệ sách của cụ Trần Thái Đỉnh cống hiến cho ta 21 chương đầu của Lập quốc kinh (Sấm truyền ca , quyển II, trang 170-237), nằm liền sau tác phẩm Tạo Đoan Kinh (Sấm truyền ca , quyển I, trang 6-169).

Hơn nữa, điều kỳ diệu đã xảy ra: Ấn bản Canada 2000 in theo phiên bản chép tay của Paulus Tạo, còn ở đây là phiên bản chép tay của Nguyễn Văn Nhạn. Bản này gần với bản gốc của tác giả Lữ Y Đoan hơn bản Paulus Tạo rất nhiều và có thể là cơ sở để phục chế được phiên bản quốc ngữ tại Cái Mơn 1870.




Bìa Sấm truyền ca và 2 trang đầu Lập quốc kinh

6. NIÊN BIỂU CÁC SỰ KIỆN

Theo các bài nghiên cứu,

Năm 1670: tác giả Lữ Y Đoan đã hoàn thành bộ sách Sấm truyền ca.[1] (Bản A).

1810 ông Phan Văn Cận biết đến một bản chữ Nôm tại Cái Mơn (Bản B) – 1820: Ông Cận phiên chuyển sang chữ Quốc ngữ (1816 – 08/12/1820, Bản B1).[2]

1870 phát hiện một hầm vô chủ cũng tại Cái Mơn, tìm được nhiều sách trong đó có Sấm truyền ca (bản C).[3] và ông Nguyễn Văn Thế đã chép lại[4]. Từ bản chữ Nôm này có người viết ra chữ Quốc ngữ và đã được chuyền tay chép lại (C1)[5]

1885: Cha Phaolồ Qui bắt đầu đánh số câu trên bản Phan Văn Cận[6]. (B2)

1908: Trần Hớn Xuyên gặp một bản tại Cần Thơ (C2), và chép lại vào năm 1910[7] (Bản C3). [8]

1920-1930: Bản Trần Hớn Xuyên được giao cho ông Paulus Tạo (C3).[9]

Năm (?) Paulus Tạo đối chiếu hai bản và chép lại bản (B2) thành (B3).[10]

Năm 1947: Nguyễn Cang Thường đưa về Tòa soạn báo Tông Đồ[11] (Đây là bản C3 sau 1952 trở thành C4 rồi năm 1956 được chép thành C5. Còn bản B3 đi về đâu?

- Nếu B3 cũng được Nguyễn Cang Thường đưa về Tòa soạn báo Tông Đồ, thì sau bão, hoặc nó hỏng hết/ hoặc tồn tại nguyên vẹn/ hoặc bị tàn phá nhiều hay ít hơn bản C4. Không thấy Nguyễn Văn Nhạn nói tới.

- Có lẽ B3 không theo về Tòa soạn báo Tông Đồ nhưng vẫn được gia đình Paulus Tạo giữ, và chỉ có phần Tạo Đoan Kinh, như ghi rõ trên bìa sách ở trang XVII ấn bản B4?

Năm 1950, chuyển theo báo Tông Đồ về trụ sở mới.[12] (C3)

Sau 1952: sau bão lụt, chỉ còn sót lại hai quyển đầu [13] quyển thứ I gọi là Tạo Đoan Kinh và 21 chương đầu của Lập quốc kinh (C4).

Tháng 10/1956: Nguyễn Văn Nhạn chép lại (Bản C5).[14]

Vài năm sau 1975 ở Sài Gòn, [15] hai gia đình nhà báo Paulus Tạo và Nguyễn Văn Nhạn trao lại cho ông Hoàng Xuân Việt hai bản chép tay Sấm truyền ca (B3 và C5). Theo mạch văn của Gs. Nguyễn Văn Trung, có lẽ bản B3 chỉ có quyển Tạo Đoan Kinh, không có các quyển sau (Xuất hành, Lêvi, Dân số và Đệ nhị luật)?

Sau đó ông Hoàng Xuân Việt trao lại cho Giáo sư Nguyễn Văn Trung và Giáo sư đã sao chụp một số bản gửi cho bạn bè đọc.[16]

Năm 1988, Gs Trung đã nói tới Sấm truyền ca trong chương IV "Một nếp sống đạo bình dân, đại chúng" trong tập biên khảo "Đạo Chúa ở Việt Nam".

Gs Nguyễn Văn Trung sao chụp cả 2 bản (B3 và C5) chia sẻ với giới nghiên cứu[17].

Năm 1993, một công trình của nhiều tác giả biên khảo "Về sách báo của các tác giả Công Giáo thế kỷ XVII - XIX", do Khoa Ngữ Văn Trường Đại Học Tổng Hợp Tp. HCM thực hiện, in 500 bản như tài liệu tham khảo, ba người cộng tác trong công trình này đã phát biểu ý kiến về Sấm truyền ca , cả 3 đều trân trọng đón nhận đề cao.[18]

1994: Ở ngoài nước, Mục Sư Lưu Hồng Khanh đã nhắc tới Sấm truyền ca trong bài "thần học trong mạch sống văn hóa xã hội Á Châu"[19].

1997: Hai nhà biên khảo Văn Học, Trần Đức Cương, Lê Phụng trong "Nẻo Mới Vào Văn Học: Cảo Luận” vận dụng những lối tiếp cận mới của Tây Phương để tìm hiểu Văn Học Việt Nam, phần cuối nói đến Sấm truyền ca cho thấy khả năng truyền thông của tiếng Việt như một ngôn ngữ phổ biến.[20]

1997: Nguyễn Vy Khanh nhắc tới Sấm truyền ca trong bài "Tiếng Việt và một số tác phẩm mới phát hiện".[21]

2000: Ấn bản Canada (B4)

2002: “Ðôi lời giới thiệu Sấm truyền ca Lữ Y Ðoan”, bài viết chưa công bố của Gs.Nguyễn Văn Trung, mời gọi tìm kiếm bút tích Sấm truyền ca.[22]

2020: Ần bản Tủ sách Nước Mặn. (B5)

2022, ngày 23/11: Tìm lại được 21 chương đầu của Lập quốc kinh trong C5.

7. HIỆN TRẠNG BẢN VĂN

Ghi chú của Paulus Tạo ở lời “tựa của Phan Văn Cận” và “mấy lời nói đầu” của Nguyễn Văn Nhạn khó giúp ta phân biệt các bản sao được nhắc đến, nhưng bù lại, chỉ cần quan sát trên hình thức trình bày và nội dung của hai bản văn của Paulus Tạo (bản B, nơi ấn bản Canada 2000) và bản chép tay của Nguyễn Văn Nhạn (bản C, mới nhận được), ta có thể kết luận dễ dàng:

Bản B4: Canada 2000 (Paulus Tạo)

- Danh từ riêng gần âm Latin theo Phaolô Qui

- Xem việc đánh số câu là đương nhiên, không có vấn đề, không bận tâm về nguồn gốc số câu.

- Một số câu thơ bị sửa đổi

- Chú thích

Bản C5: Nguyễn Văn Nhạn

- Danh từ riêng vừa dựa theo âm vừa diễn nghĩa

- Tại câu đầu tiên: ghi chú rằng “đánh số câu theo Kinh thánh Cựu ước do linh mục Phaolồ Qui”; bị sót các số câu 19 và 21 của chương XLVI. Nếu bản B3 không có 21 chương Lập quốc kinh, việc đánh số câu cho Lập quốc kinh của bản C5 có lẽ do Nguyễn Văn Nhạn thực hiện theo cùng một cách với cha Phaolô Qui?

- Chú thích: một số giống với bản B4, một số không có trong B4.

- Không có 6 câu kết.

8. DỰ KIẾN ÂN BẢN SẤM TRUYỀN CA NHẤT LÃM

Khi ấn hành bản Nước Mặn 2020, chúng tôi mong có nhiều tín hữu ngày nay đọc và hiểu dễ dàng, nên đã cập nhật một số từ cổ và sửa một số lỗi chính tả thấy rõ trên bản Canada (B4) có thể không gặp trong bản B3. Điều ấy khiến bản văn (B5) càng thêm xa bản gốc.

Nay bản C5 cung cấp thêm những thông tin quý:

- Nguyên dạng những tên riêng vừa dựa theo âm vừa diễn nghĩa

- Ghi chú ở câu 1,1 cho thấy khi chép C5, ông Nhạn đã tham khảo và mượn lại việc đánh số câu từ bản B3.

- Cũng có nghĩa là ông Nhạn đã tham khảo và mượn lại nhiều chú thích từ bản B3.

- Cuối Tạo Đoan Kinh, bản C5 không có sáu câu “lời kết” (B5, câu 3601-3606)

- Bản B4 lập mục lục đồng bộ với hai câu thơ 4 chữ đầu mỗi đoạn Kinh thánh (B4, trang 181-186), bản C5 không có thông tin này. Bản B4 dựa vào đâu để có những câu thơ tựa đề ấy? Chi tiết này cho thấy có độ chênh đáng kể giữa bản B4 so với B3.

- Suy ra, nếu tìm được bản B3, ta sẽ có thêm một số thông tin lý thú.

Từ những ghi nhận ấy, chúng tôi xin đóng góp vài ý luận giải

- Đối chiếu những tên riêng vừa dựa theo âm vừa diễn nghĩa (Dư Tiệp/Du Tiệp, Sĩ Mông/Sử Mông vv…) ta có thể kết luận như Nguyễn Văn Nhạn rằng bản tìm được ở Cái Mơn năm 1870 là một bản Nôm, “có người viết ra chữ quốc ngữ” (C1) – sau Phan Văn Cận (B1) 50 năm.

- Bản C1 không chịu sự biên tập lại của cha Phaolồ Qui, do đó gần nguyên bản chữ Nôm hơn.

- Ông Paulus Tạo chép bản B3 năm nào không rõ nhưng đã có bản C3 trong tay để tham khảo và phải trước bản C5 của ông Nguyễn Văn Nhạn (1956). Có khả năng ông Tạo điều chỉnh một số chi tiết của B3 theo bản C3.

- Khi chép bản C5 (1956), ông Nguyễn Văn Nhạn có bản B3 trước mặt để tham khảo. Có khả năng ông Nhạn điều chỉnh một số chi tiết của C4 theo bản B3.

- Hai ghi nhận và giả thuyết vừa nói có thể giải thích làm sao hai bản chuyển sang Quốc ngữ cách nhau 50 năm lại có thể giống nhau đến thế.

- Bản Canada 2000 (B4) khi in, do lỗi đánh máy hoặc cố tình sửa, có thể bị chênh so với bản B3 (gốc).

- Cả hai bản phiên âm quốc ngữ (B và C) đều thực hiện tại Nam bộ với cách phát âm Nam bộ. Bản B3 do một người Nam bộ chép lại, thế nhưng bản B4 lại khá nhiều lỗi chính tả của người miền Bắc. Những lỗi ấy có lẽ chỉ mới vấp do người đánh máy phiên bản B4. Do đó rất cần tìm được bản chép tay B3 để đối chiếu.

- Dù sao có thể tạm kết luận: Do sự can thiệp của cha Phaolồ Qui, bản B3 khá xa với bản B. Bản C5 gần với bản C hơn, tức là gần nhất với nguyên bản chữ Nôm (A).

Nếu tìm lại được bản B3, ta có thể thực hiện một ấn bản nhất lãm, in song song ba cột: Bản B3- Bản C5 – Ghi chú, để phục chế một bản chữ Quốc ngữ (Bản D) tương đối trung thực với bản chữ Nôm (A) hiện đã thất lạc, và như thế sẽ mở rộng khả năng nghiên cứu cho nhiều người.

Bản B3

Bản C5

Ghi chú

Từ bản Phan Văn Cận - B1

Bản Quốc ngữ sát gốc hơn Từ bản 1870 - C1

 

(1)

(2)

(3)



Hình bìa Sấm Truyền Ca do Paulus Tạo thự hiện khổ 38,5 x 28,2 cm

(Trang bìa bản photocopy tài liệu chép tay B4 đang cần tìm)

9. TIẾP TỤC CUỘC KIẾM TÌM

Hành trình kỳ diệu hơn 350 năm qua của Sấm truyền ca cho phép ta mơ và bắt tay tìm kiếm. Không riêng phần Tạo Đoan Kinh của bản B3 mà ta còn hướng tới truy tìm toàn bộ 5 quyển của tác phẩm, cả bản Nôm và bản Quốc ngữ.

Gs. Nguyễn Văn Trung vừa qua đời ngày 19-10-2022 ở Canada. Trong bài viết tháng 4-2002 chưa công bố, tựa đề, ông cho biết: “Tuy nhiên đối với người nghiên cứu cần nguyên bản, chúng tôi sao chụp cả hai bản chép tay Sấm truyền ca của Paulus Tạo và Nguyễn Văn Nhạn.” Đó là hai bản B3 và C5. Bản C5 vừa tìm lại được. Rất hy vọng một trong những bản sao chụp B3 vẫn còn tồn tại.

Cũng trong bài viết ấy, Giáo sư Trung tha thiết ngỏ lời mời gọi tích cực kiếm tìm:

“Thày giảng và thày cả Lữ Y Ðoan được giới thiệu là người thâm nho nổi tiếng hơn cả. Như vậy, nếu Lữ Y Ðoan đã soạn "Sấm truyền ca" là điều có thể tin được và ông phải soạn Sấm truyền ca , phổ biến Sấm truyền ca trong thời kỳ làm thày giảng, hoạt động ở Ðàng Trong vào thế kỷ XVII gồm các tỉnh từ ÐàNẵng đến Phan Thiết. Sau khi ông qua đời, Sấm truyền ca mới được phổ biến ở miền Nam (Lục Tỉnh). Cũng phải giả thiết Sấm truyền ca được soạn thảo phổ biến ở miền Trung thời kỳ Dòng Tên cởi mở rộng rãi và gặp khó khăn cấm đoán thời kỳ Hội Thừa Sai Paris nghiêm ngặt.

Nhưng dù được khuyến khích hay bị ngăn cấm, Sấm truyền ca và Lữ Y Ðoan không thể không được nhắc đến trong các thư từ, tường trình gửi về Âu Châu của Dòng Tên và Hội Thừa Sai Paris. Do đó tiếp tục tìm kiếm ở các văn khố Dòng Tên, Dòng Phanxicô, Hội Thừa Sai Paris, có hy vọng không những biết nhiều hơn nữa về Lữ Y Ðoan, Sấm truyền ca mà còn kiếm ra bản quốc ngữ, bản Nôm toàn bộ Sấm truyền ca. Ở trong nước, có hy vọng tìm ra bản nôm, các bản quốc ngữ. Tha thiết đề nghị các Giám Mục ÐàNẵng, Qui Nhơn, Phan Thiết, Sàigon, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Long Xuyên lưu tâm tìm kiếm, phát hiện.”

Ước mong quý độc giả, Công giáo cũng như ngoài Công giáo, cùng quan tâm tìm kiếm để đưa ra ánh sáng những đóng góp quý giá của tiền nhân.

Cụ thể, nếu quý vị có cơ may biết được tác phẩm còn tồn tại đâu đó, hoặc nếu quý vị tìm thấy những bản chép tay, những bản in cổ, bằng quốc ngữ hoặc Hán Nôm mà trong nhà chưa đánh giá được, xin vui lòng dùng điện thoại sao chụp lại (ít là một số trang đầu và một số trang cuối) gửi về cho chúng tôi qua địa chỉ: Lm. Võ Tá Khánh, Tòa Giám mục Qui Nhơn, 116 Trần Hưng Đạo, Tp Quy Nhơn, Sđt: 0935-424-449 hoặc qua email tinmunggiesu@gmail.com. Ban quản trị Tủ sách Nước Mặn sẽ nhờ người đọc để báo lại cho quý vị biết nội dung của tư liệu. Nếu đó là những tư liệu liên quan đến đời sống và lịch sử Dân Chúa, chúng tôi sẽ trao đổi với quý vị để cùng tìm cách bảo tồn.

Đặc biệt, theo tâm tình của cố Gs. Antôn Nguyễn Văn Trung, chúng tôi rất mong tìm được địa chỉ gia đình hai nhà báo Paulus Tạo và Nguyễn Văn Nhạn để tỏ lòng biết ơn và gửi ấn phẩm B5 làm quà kỷ niệm. Nếu quý vị nào biết, xin làm ơn chia sẻ thông tin. Xin chân thành cảm tạ.

WHĐ (05.12.2022)



[1] x. Canada VII

[2] x. Canada XI

[3] x. Canada XV

[4] x. Canada XV

[5] x. Nguyễn Văn Nhạn, “Mấy lời nói đầu”, trang 2-3.

[6] x. Canada VII

[7] x. Canada XV

[8] Bản này tên riêng giữ nguyên dạng “mượn âm và diễn ý”, không sửa theo Phaolô Qui; còn số câu là mượn của Phaolô Qui?

[9] x. Nguyễn Văn Nhạn, “Mấy lời nói đầu”, trang 4.

[10] x. Canada XIII

[11] x. Nguyễn Văn Nhạn, “Mấy lời nói đầu”, trang 5.

[12] x. Nguyễn Văn Nhạn, “Mấy lời nói đầu”, trang 5.

[13] x. Nguyễn Văn Nhạn, “Mấy lời nói đầu”, trang 5.

[14] x. Nguyễn Văn Nhạn, “Mấy lời nói đầu”, trang 5.

[15] Nguyễn Văn Trung, “Đọc Sấm Truyền Ca của Lữ Y Đoan”, chưa in.

[16] Nguyễn Văn Trung, “Đọc Sấm Truyền Ca của Lữ Y Đoan”, chưa in.

[17] “Tuy nhiên đối với người nghiên cứu cần nguyên bản, chúng tôi sao chụp cả hai bản chép tay Sấm Truyền Ca của Paulus Tạo và Nguyễn Văn Nhạn.” (Nguyễn Văn Trung, Sấm Truyền Ca Lữ Y Ðoan, Ðôi lời giới thiệu, bài viết tháng 4-2002 chưa công bố)

[18] Ba vị này là: Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, Trần Thái Đỉnh và Trần Thanh Đạm. Theo Nguyễn Văn Trung, “Đọc Sấm Truyền Ca của Lữ Y Đoan”, chưa in.

[19] Tạp chí "Tin và Sống" Tập san Thần Học, số 4, xb ở Pháp năm 1994. Sđd.

[20] Tạp chí "Hợp Lưu" Hoa Kỳ số 36 tháng 8 và 9 năm 1997. Sđd.

[21] Tập san Y Sĩ Montreal, Canada (345 trang) 1997. Sđd.

[22] Nguyễn Văn Trung, “Sấm Truyền Ca Lữ Y Ðoan, Ðôi lời giới thiệu”, bài viết tháng 4-2002 chưa công bố.