chuyển dịch Việt ngữ và chú thích
PHẦN 1
GIỚI THIỆU LÁ THƯ PENANG
I. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ PETRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ AN NAM – NAM KỲ TRONG GIAI ĐOẠN 1859-1860
Petrus Trương Vĩnh Ký sanh ngày 6 tháng 12 năm 1837 tại Cái Mơn, Vĩnh Long, dưới thời Minh Mạng. Năm 1845, vào tiểu chủng viện Cái Nhum học với linh mục Henri Borelle (tên Việt là Hoà). Năm 1849, học với linh mục Charles-Émile Bouillevaux (tên Việt là Long) lúc đó mới từ Pháp sang Cái Nhum. Năm 1850, đi cùng linh mục Bouillevaux sang học tại chủng viện Pinhalu bên Cao Miên. Năm 1851, được nhận vào học ở đại chủng viện (Trường Chung) ở Penang (Poulo Pinang, Pulau Penang) tại Mã Lai (Malaysia). Năm 1858, trở về Cái Mơn sau khi mẹ chết.
Vào khoảng thời gian này, liên quân Pháp – Tây (Ban Nha) bắt đầu tấn công Đà Nẵng. Cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1858, dưới quyền chỉ huy của Phó Đô Đốc (Vice Amiral) Rigault de Genouilly, liên quân chiếm bán đảo Sơn Trà và bắt đầu cuộc chiến với triều đình nhà Nguyễn. Sau khi thấy không thể tiến đánh Huế được, Rigault de Genouilly chuyển hướng qua tấn công Nam Kỳ. Ngày 18 tháng 2 năm 1859, liên quân chiếm thành Gia Định.
Một trong những phản ứng đầu tiên của Triều đình Huế là gia tăng việc bắt đạo ngay sau khi liên quân Pháp – Tây Ban Nha đánh Đà Nẵng. Trong hoàn cảnh đó, vào mùa thu năm 1858, sau sáu năm học tập ở đại chủng viện Penang, vì mẹ chết nên Petrus Ký trở về quê nhà ở Cái Mơn. Và trong thời gian vài tháng đầu khi mới trở về, Petrus Ký phụ giúp linh mục Henri Borelle (tức Hoà) dạy học tại tiểu chủng viện Cái Nhum, nơi gần với quê nhà ông ở Cái Mơn. Cả hai nơi này đều có nhiều giáo dân Thiên Chúa Giáo người Việt. Họ được linh mục Borelle,người phụ tá cho giám mục Dominique Lefèbvre, coi sóc. Và giám mục Lefèbvre (tên Việt là Ngãi) chính là người cai quản giáo dân của toàn thể địa phận Tây Đàng Trong, bao gồm cả xứ Cao Miên và lục tỉnh Nam Kỳ.
Chiến dịch bắt đạo tại miền Tây Nam Kỳ của nhà Nguyễn sau khi quân Pháp đánh Đà Nẵng được khởi đầu với cuộc lùng bắt linh mục Henri Borelle và các phụ tá của ông tại Cái Nhum vào ngày 9 tháng 12 năm 1858. Petrus Ký, một phụ tá của linh mục Borelle, đã may mắn thoát được cuộc lùng bắt này và chạy lên Sài Gòn tị nạn.
Đó là bối cảnh lịch sử cho lá thư Penang.
Và đó cũng là bối cảnh lịch sử cho một lá thư khác được ký tên Petrus Key, mà chúng tôi cho rằng là một bức thư mạo danh Petrus Ký như một người theo đạo Thiên Chúa có gốc gác ở miền Lục Tỉnh đã viết thư cầu cứu quân Pháp sang Việt Nam để giải cứu giáo dân Việt Nam đang bị nhà Nguyễn truy bắt.
Để biết thêm về lá thư ký tên Petrus Key nói trên, xin xem: «Petrus Key và Petrus Ký – Chuyện Một Lá Thư Mạo Danh Trương Vĩnh Ký vào Thế Kỷ 19» / Winston Phan Đào Nguyên, tại URL này :
https://petruskyaus.net/petrus-key-va-petrus-ky-chuyen-mot-la-thu-mao-danh-winston-phan-dao-nguyen/
II. LAI LỊCH CỦA LÁ THƯ PENANG
Chúng tôi có được bản phóng ảnh (photocopy) và bản dịch tiếng Pháp một lá thư bằng chữ La-tinh viết tay của Petrus Ký (Lá thư Penang) gửi cho các bạn đồng học ở Penang, là do bà Christine Nguyễn trao lại. Bà Christine Nguyễn, một hậu duệ (cháu cố) của Petrus Trương Vĩnh Ký, trong khi nghiên cứu làm luận văn Cao học ngành Thư Viện Học (Master of Library Science) tại Graduate School of Library and Information Studies, New York năm 1992, đã được Linh Mục Moussay của Thư viện Hội Thừa Sai Paris (Missions Étrangères de Paris, 128 Rue du Bac, 75007 Paris, France), tặng cho bản phóng ảnh lá thư Penang của Petrus Ký đang được lưu trữ trong Thư viện của Hội. Một bạn học người Pháp của bà Christine Nguyễn là Anne Madelin đã nhờ linh mục Antoine Lauras thuộc Dòng Tên (Société des Jésuites = S.J.), giáo sư dạy văn chương Hy-lạp và La-tinh tại các Đại Học ở Paris, dịch ra một bản tiếng Pháp.
Nhưng vì là một bản viết tay hơn 150 tuổi, lại thêm kỹ thuật sao chụp hơn hai chục năm trước (1990) chưa đủ tiến bộ, rất khó khăn để có thể đọc được thông suốt lá thư này. Thêm nữa, vì có lẽ giáo sư Antoine Lauras không biết tiếng Việt, cũng như địa dư, văn hóa và lịch sử Việt Nam, nên bản dịch bằng tiếng Pháp của ông có nhiều chỗ rất khó hiểu, hoặc không được chính xác.
Do đó, trong nỗ lực nghiên cứu lá thư Penang một cách khoa học, chúng tôi cần trước hết là đọc được toàn văn lá thư bằng tiếng La-tinh từ bản chép tay. May mắn nhờ hai tu sĩ là linh mục Dòng Tên người Việt đang nghiên cứu làm luận văn tiến sĩ về lịch sử Hội Thánh Công Giáo tại Việt Nam – một người ở Paris, một người ở Rome – chúng tôi đã có được một bản sao chụp với kỹ thuật số mới (digital copy) rõ ràng hơn. Từ đó, chúng tôi đã có thể đọc ra và chép lại được toàn văn lá thư bằng tiếng La-tinh.
Tiếp theo, chúng tôi đã cùng làm việc để hiểu, chép lại, và dịch chính xác tối đa lá thư Penang từ tiếng La-tinh ra tiếng Việt, với tôn chỉ là phải giữ lại giá trị lịch sử của văn bản này càng nhiều càng tốt. Vì lý do đó, chúng tôi đã cố gắng dịch nhưng vẫn giữ lại thứ tự trong câu y nguyên như văn bản La-tinh – cho dù việc này làm cho bản dịch có vẻ không mấy văn chương – nhưng lại tiện lợi cho việc so sánh giữa nguyên bản và bản dịch. Kế đến, chúng tôi đã cố gắng chuyển sang tiếng Việt cho gần giống với văn phong của ông Petrus Trương Vĩnh Ký, một người Nam Kỳ ở thế kỷ 19. Việc này rất khó khăn, vì chúng tôi không thể dùng những chữ đang được dùng một cách phổ thông ngày nay nhưng lại không có trong thế kỷ 19, do chúng chỉ xuất hiện sau đó vào thế kỷ 20. Sau cùng, để người đọc có thể hiểu rõ thêm nội dung lá thư, chúng tôi, trong khả năng của mình, đã cố gắng làm đầy đủ những chú thích về những sự kiện và nhân vật lịch sử được nói đến trong thư, cũng như những đoạn văn liên quan đến Thánh Kinh hay những châm ngôn điển tích Hy-La đã được tác giả nêu ra trong thư.
III. NHỮNG ĐIỂM CHÍNH CỦA LÁ THƯ PENANG
Lá thư Penang là một trong những tài liệu lịch sử nguyên bản vào thế kỷ 19 rất hiếm hoi của Việt Nam. Nhưng lá thư này đặc biệt đáng được lưu ý vì hai lý do sau đây:
– Lý do thứ nhất, tuy là thư của một người trong cuộc viết cho bạn bè ở trường đào tạo giáo sĩ Công Giáo tại Penang để kể cụ thể và chi tiết về một vụ bắt bớ các tín hữu theo đạo Thiên Chúa ở Cái Mơn (Vĩnh Long) và Đầu Nước (Châu Đốc), nhưng qua đó tác giả giúp chúng ta hiểu thêm nhiều về bối cảnh lịch sử, chính trị và xã hội của nước ta và riêng của xứ Nam Kỳ.
– Lý do thứ hai, tác giả bộc lộ rõ ràng thái độ của mình là người kế thừa xác tín của những người tin thờ Thiên Chúa. Qua lá thư Penang, Petrus Ký cho thấy là đã không bao giờ trông chờ vào ngoại bang hay bạo lực để giải thoát các tín hữu khỏi bị bắt bớ giết hại vì theo đạo. Trước những nghịch cảnh khi bị lùng bắt, ông chỉ trông cậy vào Thiên Chúa. Sau cùng, ông cho rằng việc quân Pháp đánh Việt Nam với danh nghĩa để giải cứu các giáo dân, thật ra chỉ làm cho tình hình của giáo hội Việt Nam ngày càng thêm bi đát hơn mà thôi.
Sau đây là bản dịch sang quốc ngữ Lá Thư Penang của Petrus Ký.
Phần ghi chú và phụ lục được cho vào cuối bản dịch để giải thích thêm về lịch sử Việt Nam, điển tích trong Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo, để độc giả hiểu rõ thực trạng lúc bấy giờ đã được Petrus Trương Vĩnh Ký mô tả cặn kẽ trong Lá Thư này
***
Chúng tôi xin cám ơn bà Christine Nguyễn, Anne Madelin, hai tu sĩ nghiên cứu sinh ở Paris và Rome, bà Phạm Thị Lệ-Hương, bà Nguyễn Thế Học (tức nhà văn Phạm Thảo Nguyên), bà Nguyễn Thị Nga, Bác sĩ Tiêu Minh Thu, và ông Vũ Nguyễn, đã cung cấp tài liệu ban đầu, phối hợp mọi việc để giúp cho chúng tôi hoàn thànhdịch sang quốc ngữ Lá Thư Penang này.
California, tháng 1-2021
Winston Phan Đào Nguyên
LM Nguyễn Công Đoan, SJ
LM Trần Quốc Anh, SJ
PHẦN 2
BẢN DỊCH QUỐC NGỮ LÁ THƯ PENANG
***
A. M. D. G.1
Gởi tất cả anh em của tôi tại
Trường Chung2 truyền giáo hải ngoại ở Pulo-Pinang
__________________________________________________
Xin dọn lòng3 và đón nhận cuộc Chạy Trốn Nhiều Chuyện4, các anh em của tôi
Từ Nam Kì lục tỉnh hoặc Từ Tây Đàng Trong5
A. M. D. G. M6
___________________________________________________
1859
Người anh em của các anh em, Pet. Ký
Chữ Ký
[Phóng ảnh chữ ký của Trương Vĩnh Ký trích từ trang đầu của thư viết tay bằng La-tinh]
[Trang 1 này không liên quan tới lá thư, chỉ là một tờ dùng làm bìa, và được lấy từ một cuốn sổ dùng để ghi số người lãnh nhận các bí tích năm 1858, ở Hà Giang, tỉnh Long Tường]
A.M.D.G. A.M.D.G.M
J.M.J7
____________________________________________________
Vì chưng thời giờ không cho phép tôi viết riêng cho từng anh em, mà tôi cũng không có huỡn để làm rầy tai người khác; tôi mong là không làm anh em phiền lòng khi tôi kể ra đây cho mọi người về những việc đã xảy ra, mà nếu viết cho từng người, thời tôi cũng phải kể. Thời gian và nơi chốn dễ dàng dong thứ cho tôi. Những gì tôi kể dưới đây về các người xưng đạo8, là sự thật, vì chưng những đều ấy đã được thuật lại, bởi các người đã nhận lịnh của bề trên có chức quờn9 để làm việc này, ngay tại nơi xét xử.10
Thưa anh em rất thân mến của tôi trong Đức Christo (Khi-ri-xi-tô)11.
Chúc tụng Đức Chúa Trời là Cha Đức Chúa Giê-su12 Khi-ri-xi-tô Chúa chúng ta, là Cha hay thương xót và là Đức Chúa Trời ban mọi sự an ủi, ngài an ủi chúng tôi trong mọi sự khốn khó13 của chúng tôi! Thưa anh em, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về sự gian nan đã xảy tới cho chúng tôi tại xứ Annam14, chúng tôi đã phải chịu đựng quá mức, quá sức mình, đến nỗi chẳng còn thiết sống nữa15. Nhưng chúng tôi không cậy mình, mà chỉ cậy vào Đức Chúa Trời, là đấng khiến kẻ chết sống lại, là đấng có quờn phép để giải cứu chúng tôi khỏi những hiểm nguy lớn lao dường ấy, là đấng mà chúng tôi trông cậy sẽ cứu chúng tôi nữa và sẽ cho chúng tôi được khởi huờn trong Đức Khi-ri-xi-tô Giê-su16. Vậy tôi xin báo cho anh em hay những đều gì xảy ra cho chúng tôi mà quan quờn đã nói và đã làm. Và tôi cũng kể cho anh em đặng hay, thưa anh em, ơn Đức Chúa Trời đã ban cho các Hội Thánh ở Annam từng chịu nhiều sự khốn nạn. Hãy đồng lòng cất tiếng lên cùng Đức Chúa Trời, là đấng đã dùng Đức Chúa Thánh Thần qua miệng đầy tớ Ngài là David (Đa-vít)17 Tổ Phụ18 chúng ta mà phán dạy.
Vì quả thật trong xứ này người ta đã hiệp nhau chống lại người Con Rất Thánh của ngài là Đức Chúa Giê-su, đấng mà Đức Chúa Trời đã xức dầu phong vương trên núi thánh, khi công bố lịnh truyền của ngài19. Vậy giờ đây anh em, chúng tôi xin và van nài anh em trong Đức Chúa Giê-su, hãy cầu nguyện cho chúng tôi để Đức Chúa Trời nghe thấy những lời đe dọa của kẻ nghịch chúng tôi cùng ban cho các tôi tớ của Ngài được vững lòng rao giảng lời của Ngài và xưng danh Chúa ra càng hơn20. Chẳng bớt đi những ngày này, thời chẳng sanh linh nào đặng thoát!21 Từ ngày đoàn chiến thuyền Pha-lang-sa22 tới Touron23, thời đối với các bổn đạo24 cần trợ giúp, thuốc thang lại còn tệ hơn chứng bịnh! Họ bị phát tán và phân sáp25! Họ lánh vào nơi vắng vẻ và chẳng đặng nghỉ ngơi! Họ như chiên cừu26 chẳng kiếm ra đồng cỏ!