Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Ba, 29 tháng 1, 2013

TƯỞNG NIỆM NHẠC SỸ PHẠM DUY (1921-2013)





Nhạc sỹ Phạm Duy, cây đại thụ của làng âm nhạc Việt Nam đã qua đời lúc 14g30 trưa Chúa Nhật 27/01/2013 tại Sài gòn, hưởng thọ 93 tuổi.

Hay tin ấy, suốt 2 ngày qua tôi thường lặng trầm nghĩ ngợi với một cảm xúc thật sự trào dâng trong lòng. Đối với tôi, đơn giản, âm nhạc Phạm Duy đã đi sâu vào trong tâm hồn một cách tự nhiên, từ hồi tôi còn thơ bé. Quê hương chinh chiến khói lửa, có một chút tuổi khôn, tôi như chìm đắm trong nhạc Phạm Duy. Hòa bình lập lại, nhưng cuộc chiến trong lòng người bùng phát, chia rẽ, hận thù...,  nghệ thuật ấy vẫn cần mẫn vượt lên, nhiều khi phải "lén lút" xâm nhập tâm can...Tuổi học trò thư sinh, những cung bậc tình yêu, câu chuyện thế thái nhân tình, chuyện ngày xửa ngày xưa, những niềm vui nỗi buồn, cả ma quỷ và thần thánh...Ôi biết bao nhiêu điều! 

Có người nói nhạc Phạm Duy vừa có tính Bác học vừa có tính Dân gian. Bác học hay Dân gian đều là hai đỉnh núi cao ngất! Hai ngọn núi đứng gần lại và có mây bãng lãng qua về trên đỉnh, thì tạo thành bức tượng có tên là Nghệ Thuật! 

Tôi dốt nát về học thuật, chẳng hiểu mô tê gì lắm về các đỉnh cao ấy, chỉ biết mỗi khi nghe nhạc Phạm Duy, bất cứ bài nào, thì xúc cảm rung lên và tự nhiên hồi hộp chờ đợi, chờ đợi thể nào cũng có một giây phút thăng hoa, lúc mà giai điệu đột nhiên biến đổi, cung bậc tăng lên hay giảm xuống, có lúc thuận lúc nghịch ... Những khoảnh khắc ấy tâm hồn thường thấy lâng lâng, thanh thoát như trút rũ được những nỗi niềm khắc khoải, tựa dòng nước đã thoát qua được thác ghềnh, đang êm ái chảy về những cánh đồng tươi mát, thanh bình...

Nhạc sỹ Phạm Duy đã vượt qua khoảnh khắc thác ghềnh ấy, để mãi mãi về với bến bờ yêu thương.

Tưởng nhớ người nhạc sỹ tài hoa, tôi chẳng biết làm gì hơn, xin sưu tầm những sản phẩm tinh thần mà ông đã đóng góp cho đời, trong suốt gần trăm năm của một đời người : NHẠC SỸ PHẠM DUY. Xin chia sẻ cùng các bạn. 

                                                           Minh Sơn 29.01.2013

Xin mời ...

Mời đọc tin trong 2 links bên dưới, nhưng nên nghe/coi lại Paris by Night đặc biệt về Phạm Duy (dài 2 tiếng đồng hồ) có hình ảnh và giọng nói của Phạm Duy.


Paris By Night 
http://www.youtube.com/watch?v=yzH6VYfItog
http://dantri.com.vn/van-hoa/nhac-si-pham-duy-qua-doi-690034.htm


http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130127/nhac-si-pham-duy-qua-doi.aspx

và mời trang của nhạc sỹ Phạm Duy...

Nhạc sĩ PHẠM DUY
Một trăm năm tình khúc của một đời người.

_____________________________________________________

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

Ngày tết - Nói về hai mươi bốn loài hoa mai



Ngày tết - Nói về hai mươi bốn loài hoa mai

                                                               Tác giả:  Thái Thuận
Trên đất nước Việt Nam, người ta thường biết đến hoa mai qua loại hoa mai vàng năm cánh đặc trưng xưa nay mà người ta còn gọi là mai rừng, mai tự nhiên hay mai thiên nhiên chỉ có năm cánh, hoa nhỏ và thân cao to có khi đạt đến chiều cao hơn chục mét, hương thơm thoang thoảng, lây lất mùi gỗ rất dễ chịu và mát, không nồng và đậm như một số loài hoa khác.
Nhưng thật ra trên thế giới có tất cả hai mươi bốn loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào của Trung quốc có màu trắng hoặc trắng hồng, cánh nhỏ, nhụy rậm và dày thường mọc thành chùm và hoa rậm, thân giống cây hoa đào, đoạn xù xì, đoạn trơn láng, màu xanh, da bóng và mọc cao to như cổ thụ.

Hoa mai tại Việt Nam mọc phổ biến ở miền Trung và miền Nam, đa phần là mai rừng tự nhiên. Sau này người ta sử dụng một số loại mai ghép lại với nhau và cho ra đời một loại mai nhân tạo đó chính là mai giảo nhiều cánh, số lượng cánh có thể lên đến hàng chục cho đến hàng trăm cánh xếp chồng lên nhau thành một đóa hoa dày và lớn. Nhưng thật ra hoa mai vàng trong tự nhiên cũng có loài đạt đến số lượng cánh rất cao (từ 12 cho đến 18 cánh). Mai tự nhiên có mùi hương tự nhiên rất thơm và thường nực nồng vào buổi sáng và dần dần mất mùi vào những khoảng thời gian còn lại trong ngày. Có lẽ vì buổi sáng sớm, nhiệt độ còn thấp, sương chưa tan nên hương thơm còn giữ lại trong không khí, đến khi mặt trời lên, nhiệt độ tăng dần, sương tan hết cũng là lúc hương hoa cũng tản ra trong không khí nên chúng ta nghĩ là hoa mất mùi sau khi mặt trời lên cao.
Hoa mai tại Việt Nam có mười tám loại như sau:
1 - Mai năm cánh: Loại mai vàng mọc phổ biến tại miền Trung (Từ Đà Nẵng, Quảng Nam cho đến Khánh Hòa) và trên dãy trường Sơn, trong những khu rừng già. Đây là loại mai năm cánh tự nhiên, hoa nhỏ, thân vừa và nở hoa không nhiều và rậm như một số loài mai khác mà nở thưa thớt. Nhưng nếu lạc vào rừng mai này vào mùa xuân thì chúng ta sẽ thấy sắc hoa vàng rực rỡ cả một khu rừng, cả một triền núi và xác hoa rơi có khi vàng cả một dòng suối. Hương thơm ngập tràn và lan tỏa cả một vùng rộng lớn. Ở một số ngọn núi thuộc đồng bằng sông Cửu Long như tại vùng Thất sơn (bảy núi) cũng có loại mai này nhưng ít hơn và rải rác không tập trung.

2 - Mai núi: Cũng là một loại mai rừng nhưng có số lượng cánh nhiều hơn từ 12 cho đến 18 cánh, có khi còn hơn thế nữa. Mai này mọc trên những núi đá khô khốc và sống chủ yếu bằng hơi sương, nước mưa và nước ngầm trong lòng đất cộng với khí hậu ẩm thấp của miền núi. Loài mai này thường xuất hiện nhiều tại các vùng núi thuộc Tây Nguyên và nước bạn Campuchia.
3 - Mai chủy: Cũng là một loại mai rừng nhưng thân cây rất to, hoa nhiều, lá rộng, xanh bóng và có hình răng cưa. Loại mai này có hoa mọc thành chùm rất đẹp nên gọi là mai chủy (chủy có nghĩa là chùm, quần thể, quây quần lại, đặc nghẹt).
4 - Mai động, mai Sẻ: Là một loại mai chuyên mọc ở những vùng cát trắng gần biển. Loại mai này có thân suôn thẳng và tròn và trổ bông thưa thớt. Nếu chúng trổ năm cánh thì gọi là mai sẻ, còn nếu có hơn năm cánh thì đúng là loại mai động. Mai động và mai sẻ mọc rải rác từ các tỉnh từ Quảng Bình, Quàng Trị vào tận các vùng duyên hải thuộc miền trung và có khi thấy chúng ở các vùng đồi cát trắng thuộc miền nam như Tây Ninh, Đồng Nai, Biên Hòa v..v..
5 - Mai chùm gửi, mai Tỳ bà, mai Vương: Là một loại mai sống nhờ trên thân cây khác, nhất là các loại cây cổ thụ to lớn, chúng sống bám vào thân cây, một phần hút chất dinh dưỡng từ đất, một phần hút chất dinh dưỡng từ cây mà chúng bám vào. Không giống các loại chùm gửi khác chỉ bám trên thân cây khác, mai chùm gửi sống phân nửa dựa vào bộ rễ bám vào lòng đất của nó. Mai chùm gửi có thân ghồ ghề, cứng và xù xì cùng với những khối u kì dị. Chồi và tược cũng như hoa đâm ra từ những khối u đó. Hoa trổ khá dày và khít thành từng chùm đặc nghẹt. Có nơi còn gọi nó là mai tỳ bà hay mai vương.
6 - Mai hương, mai thơm hay mai ngự: Là một loại mai vàng có mùi hương rất thơm, thơm hơn tất cả các loài mai khác. Mùi hương của nó rất đặc biệt và có lẽ là nồng nàn hơn tất cả các loài mai nên nó được gọi là mai hương cho đúng với tính chất đặc biệt của loài mai vàng năm cánh này. Ở Bến Tre cũng có rất nhiều loại mai này mà người dân ở đây gọi nó bằng một cái tên rất miệt vườn là "Mai thơm" vì nó rất thơm, thơm hơn những loại mai thông thường mà người dân Nam bộ thường gặp. Ở Huế, loại mai này còn được gọi là "Mai ngự" vì nó được trồng trong cung và rất được Hoàng tộc mến chuộng dùng làm quà biếu cao cấp nên nó gọi là "Mai ngự".
7 - Mai châu (Mai trâu): Là một loại mai trổ hoa rất lớn, hoa của loài mai này lớn một cách lạ thường, cánh to và rộng, màu vàng rực. Mỗi đóa hoa có đường kính hơn 5cm nên người ta gọi nó là mai trâu mà người Nam bộ thường đọc trại ra thành "mai châu".
8 - Mai liễu: Là một loại mai có cành rất mềm và rũ xuống như cây liễu, hoa trổ rất ít. Lá mai nhọn và nhỏ, thon dài như lá liểu nên được gọi là mai liễu.
9 - Mai nhọn: Là một loại mai có lá dài và nhọn, nụ hoa và cánh hoa cũng có hình dạng tương tự.
10 - Mai Cà Ná: Là loại mai đặc trưng mọc tại vùng biển Cà Ná thuộc tỉnh Ninh Thuận. Loài mai này có thân nhỏ, èo uột, cành rất giòn, dễ gẫy, lá hình bầu dục, trơn láng và có răng cưa quang rìa lá. Người dân ở đây gọi nó là mai rừng Cà Ná.
11 - Mai Vĩnh Hảo: Vào địa phận của tỉnh Bình Thuận, thuộc huyện Tuy Phong, xã Vĩnh Hảo, nơi có nguồn nước khoáng thiên nhiên nổi tiếng nhất Việt Nam là "Nước khoáng Vĩnh Hảo" thì có một loại mai vàng nữa cũng là loài đặc trưng của vùng này, không khác gì mấy so với mai Cà Ná nhưng nó lại được người dân ở đây đặt cho cái tên theo địa danh nơi nó đang sống là "Mai Vĩnh Hảo". Mai Vĩnh Hảo có thân cứng, lá nhỏ, hoa to và phẳng, đặc biệt rất lâu tàn.
12 - Mai tứ quý: Loài mai đặc trưng của vùng Nam bộ. Mai này cũng trổ hoa vàng nhưng sau khi cánh hoa rụng đi thì đài hoa còn lại năm cánh màu đỏ với nhụy hoa và ba hạt màu đen như hạt đậu. Năm cánh hoa màu đỏ cũng tròn trịa và giống hình một đóa hoa mai. Do tính chất nở hai lần trên cùng một đóa nên người ta còn gọi mai tứ quý là nhị độ mai. Mai này trổ bông lác đác quanh năm nên mới gọi là mai tứ quý (xuân, hạ, thu, đông đều trổ hoa). Mai tứ quý thân sần sùi và đen. Có cây phát triển rất to và cao nhưng đa số là những cây lâu năm. Càng lâu năm nhìn nó càng cổ kính và chắc chắn.
13 - Mai giảo: Là loại mai có rất nhiều cánh được ghép lại từ nhiều loại mai khác nhau trên cùng một cây mai. Mai giảo lấy gốc mai vàng làm chủ đạo sau đó ghép nhánh của các loại mai khác vào để cho ra đời một loại mai có rất nhiều cánh, rất nhiều màu sắc trên cùng một cây mai. Loại này là loại mai nhân tạo mà chúng ta thấy rất nhiều hiện nay trên thị trường mai tết.
Sáu loại mai trên thế giới:

1 - Mai vàng Campuchia (Mai Cao Miên): Tên khoa học là Ochna integerrima. Hoa mai có từ 5 đến 9 cánh, khi nở ra thì úp ngược về phía cuống hoa chứ không xòe rộng như các loại mai Việt Nam, hoa có màu vàng tái (sậm gần như cam đậm). Loại mai này cũng có thấy ở Việt Nam, phần nhiều mọc trong những khu rừng thuộc miền Nam và miền Trung. Chúng là loài cây hoang dã cũng có phân bố ở một số nơi có cồn cát nóng và ven những bờ sông râm mát. Mai vàng Campuchia thuộc dạng thân gỗ, nhánh gầy, mảnh và dài. Lá đơn màu xanh nhạt và bóng mọc thưa trên cành, mép lá có răng cưa nhỏ. Hoa mọc ra từ nách lá thành chùm, cuống hoa ngắn, đài hoa xanh bóng và không che kín nụ. Ở Việt nam người ta thường dùng loại mai này để ghép thành mai giảo vì nó có khả năng tăng số lượng cánh lên rất cao. Không những thế mà hiện nay nó còn có ba màu do lai ghép là đỏ, vàng và trắng.

2 - Mai vàng Nam Phi: Có khoảng 12 loài mai thuộc chi họ mai Ochna bao gồm dạng cây lẽ và cây mọc thành bụi. trong đó có hai loài phổ biến là Ochna pretoriensis và Ochna pulchra. Hai loài này xuất hiện rất nhiều tại vùng Koppie. Loài Ochna pulchra cao khaong3 7m, vỏ cây thường có hiện tượng tróc ra, lá dễ rụng. Chúng mọc hoang dã ở rừng, vỏ cây màu xám, xù xì ở gốc, pah62n thân cây bị tróc vỏ màu kem nhạt. Mai Châu Phi có hai màu vàng và hồng. Ngoài ra ở Nam Phi còn có các loại mai rất giống với mai tứ quý tại Việt Nam.
Ochna pretoriensis
Ochna pulchra

3 - Mai vàng Myanmar (Miến Điện): Ở đất nước Phật giáo này có một loài mai mang tên khoa học là Ochna serrulata gần giống với loại mai Nam Phi. Tuy nhiên hình thức của hoa mai có khác đôi chút ở chổ cánh hoa bẹt hoặc có bầu noãn đỏ như mai tứ quý, tồn tại rất lâu trước khi rụng hoàn toàn.

4 - Mai vàng Indonesia: Có tên khoa học là Ochna kirkii Oliv, Ochna serrulata. Tất cả đều có nguồn gốc từ Châu Phi, tuy nhiên do địa chất khác nhau nên chúng có ngoại hình lớn hơn mai Châu Phi. Có loài nở hoa vào mùa xuân, mùa hè hoặc nở cả bốn mùa như mai tứ quý.

5 - Mai vàng Madagascar: Là loại mai có tên khoa học là Ochna greveanum với năm cánh tròn trịa, dúm bèo theo rìa cánh giống như mai cánh dúm ở Việt Nam, lá mai dài và rũ xuống từng chùm.


6 - Mai vàng Châu Phi: Khác với mai vàng Nam Phi vì nó giống mai vàng năm cánh của Việt Nam nhưng có tên khoa học khác là Ochna thomasiana thuộc dạng cây bụi, lá hình oval, đầu lá nhọn và bén dài khoảng 10cm. Hoa rộ trên cành vào mùa xuân, nhưng đôi khi lại bất chợt nở hoa vào mùa hè nhưng số lượng ít hơn. Cánh hoa thon dài khoảng 2cm, đài hoa bung ra rộng và trở thành màu đỏ tía, bên trong có trái non màu xanh giống như mai tứ quý của Việt Nam.


Đó là 19 loại mai của Việt Nam và thế giới, trong đó có loài thứ 4, thứ 6 và thứ 7 đã mang bảy cái tên khác nhau theo cách gọi của dân gian Việt Nam. Nếu tính tổng cộng là có 24 loài mai trên khắp thế giới hoặc có thể còn nhiều hơn nữa. Đúng là hoa mai rất đa dạng và phong phú chủng loại. Ở Trung Quốc họ vẫn gọi cây đào là cây mai vì có nhiều loại rất giống hoa mai nhất là hồng đào và bạch đào mà họ hay gọi là hồng mai và bạch mai, nhưng cánh mai tròn và nhỏ như cánh đào, nhụy hoa rậm và dày, thân cây giống hệt như cây đào nên thường gọi là đào chứ không gọi là mai.


Ngày tết nói chuyện về sự phong phú của cây mai để chúng ta cùng nhau tìm hiểu về loại hoa đặc trưng của mùa xuân này. Hoa mai là biểu tượng của sự mai mắn, tốt đẹp, một sự khởi đầu hoàn hảo và thịnh vượng cho một năm mới. Hoa mai còn có ý nghĩa xua đuổi những điều xấu xa, không tốt đẹp cho một năm luôn được bình an, hanh thông và phát đạt.


(Nguồn: donghuongkontum.com)

Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

CÕI THỜI GIAN




    CÕI THỜI GIAN



    Sao người lại gọi hoa mai?
    Mà nay đã nở! Đẹp hoài hôm sau?
    Mai và người có giống nhau?
    Mà sao rực rỡ rồi mau úa tàn!
    Cõi đời là cõi thời gian
    Dễ gì giữ được bình an xác hồn
    Mai kia rớt xuống cội nguồn
    Mai ta cũng thở hắt dồn nhịp hơi …

    Nguyên Thiên Thạch

ĂN TẾT MỘT MÌNH

    Mai Nguyên Vũ


    28 Tết. Ký túc xá vắng tanh. Các bạn về quê ăn Tết hết rồi. Còn lại vài sinh viên xa nhà không có tiền về xe, đành ở lại ăn Tết một mình. Lê khác hẳn. Quê ở gần đây thôi nhưng không có nhà mà về.

    Lê từng có một mái ấm như bao bạn khác. Ba mẹ chung sống hạnh phúc được 19 năm thì chia tay. Hai người chán nhau, cãi nhau rồi đưa nhau ra toà ly dị. Mẹ lấy một ông Mỹ già khụ, thỉnh thoảng gửi tiền về cho hai chị em Lê ăn học. Ba lấy một bà goá trên Bảo Lộc. Ba mẹ đồng ý bán nhà chia đôi. Nhà của Lê bây giờ là ký túc xá. Còn thằng em ở với ba. Lê không thể nào ở với bà dì ghẻ độc ác. Thà ăn Tết một mình còn hơn là bị bả lườm nguýt đến độ không nuốt nổi miếng cơm.

    Lê ra đứng ngoài hành lang, lơ mơ ngó xuống phố, xem người ta chộn rộn Tết nhất. Từng gia đình dắt nhau đi sắm Tết. Các em nhỏ xúng xính áo đẹp, chạy lon ton bên cha bên mẹ. Từng cành mai nụ xanh chạy vụt qua, đem xuân đến cho các gia đình.
    Ai đó mở bài “ Xuân này con không về”. Giọng nam trầm buồn kể tâm sự chàng trai thời loạn không thể về quê ăn Tết với mẹ:

      “Con biết bây giờ mẹ chờ tin con
      Khi thấy mai đào nở vàng bên nương.
      Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về
      Nay én bay đầy trước ngõ
      Mà tin con vẫn xa ngàn xa…”

    Lê bật khóc. Có lẽ đây là bản nhạc xuân hay nhất, gây xúc động lòng người nhiều nhất. Nếu ai đã từng một lần ăn Tết xa nhà sẽ không thể nào cầm được nước mắt khi nghe tuyệt phẩm này của Trịnh Lâm Ngân. Bài này một thời bị xếp loại “ nhạc vàng”, nhưng đúng là vàng ròng…Lê ngậm ngùi nhớ về gia đình ngày xưa…

    Mới 20 Tết mà mẹ đã lo sắm Tết. Mẹ dẫn hai chị em ra chợ, chọn mua những bộ quần áo, giầy dép đẹp nhất. Không khí chợ Tết vui làm sao! Mẹ mua đồ về cho ba gói bánh chưng. Cả nhà hăng hái phụ với ba, suốt cả ngày mới xong mấy chục cái bánh. Đến chiều, mẹ chụm bếp nấu bánh. Ba mẹ thức cả đêm canh lửa. Gần sáng, mẹ đánh thức hai chị em chứng kiến “thời khắc lịch sử”: bánh chưng ra lò. Chị em Lê thích thú lôi ra giùm bánh cóc do chính tay mình gói lấy.

      “Ôi nhớ xuân nào thuở trời yên vui
      Nghe pháo Giao Thừa rộn ràng nơi nơi
      Bên mái tranh nghèo ngồi quanh bếp hồng
      Trông bánh chưng chờ trời sáng
      Đỏ hây hây những đôi má đào”

    Lê lại bật khóc nghĩ về gia đình ngày xưa…
    Sân nhà Lê có gốc mai già. Năm nào cũng vậy, khoảng rằm tháng chạp, hai chị em bác ghế tuốt lá mai. Ba dặn rằng: năm nào lạnh thì tuốt sớm mấy hôm. Năm nào nóng tuốt muộn một tí thì mai sẽ nở đúng Tết. Nhưng còn phải căn nước tưới làm sao cho đến hôm “ông Táo chầu trời” (23 Tết) cả cây mai bung nụ xanh hết. Nhờ kinh nghiệm của ba, cụ mai già năm nào cũng nở hoa đúng Tết vàng ruộm cả một góc trời. Tết năm kia không hiểu sao mai nở trễ một tuần. Đúng năm đó gia đình tan rã.

      Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm
      Mái tranh nghèo không người sửa sang
      Khu vườn thiếu hoa vàng mừng xuân…”

    Lê lại bật khóc. Những ai đã từng ăn Tết một mình mới thấy hết ý nghĩa hai tiếng GIA ĐÌNH.



Thứ Hai, 21 tháng 1, 2013

KONTUM – MỘT ĐỊA DANH MANG TÍNH DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO



Tiếp tục với đề tài "Kontum - Tên gọi, địa danh, lịch sử một vùng đất qua các thời kỳ lịch sử.v.v. kontumquehuongtoi xin giới thiệu bài nghiên cứu sau đây của Linh mục Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn, đăng trên trang web Giáo phận Kontum : http://giaophankontum.com/Tin-Tuc-627_KonTum--Mot-Dia-Danh-Mang-Tinh-Dan-Toc-Va-Ton-Giao.aspx

(20:01:2013 |09:43 AM) 
Đúng 20 ngày (20.01.2013 – 09.02.2013) Mừng Kỷ Niệm 100 năm thành lập tỉnh Kontum (09.02.1913 – 09.02.2013). Một số anh chị em trong Gia đình Truyền thông Giáo phận Kontum yêu cầu Ban Truyền thông đăng trình lại tài liệu nghiên cứu “KONTUM – MỘT ĐỊA DANH MANG TÍNH DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO“  để hiểu rõ hơn SỰ NGHIỆP CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO tại tỉnh nhà.

Đồng thời người tín hữu trong Giáo phận ý thức được chỗ đứng xứng đáng của mình, chẳng những là NGƯỜI CÔNG DÂN mà còn là NGƯỜI CÔNG GIÁO ĐÃ LÀM NÊN LỊCH SỬ TỈNH KONTUM NGAY TỪ ĐẦU ĐỜI CỦA  NÓ, CÁCH ĐÂY HƠN 165 NĂM.

Ban Truyền thông Giáo phận đã đăng lên Trang Truyền thông Giáo phận LÁ THƯ CỦA LINH MỤC NGUYỄN HOÀNG SƠN ĐÃ TRẢ LỜI NHỮNG VẤN NẠN CỦA ANH LÊ MINH SƠN. Ban Truyền thông cũng trình bày trên Trang Web của Giáo phận “TÌM VỀ DĨ VÃNG LÀNG KONTRANG – ÔR”, VÀ NÊU LÊN ĐƯỢC TÍNH LỊCH SỬ CỦA NÓ, ĐỂ HIỂU HƠN “CỘI NGUỒN LÀNG KONTUM”. Qua 2 tài liệu này thiết nghĩ cũng cho chúng ta thấy được phần nào THẾ GIÁ VÀ CHỖ ĐỨNG CỦA CHA ÔNG CHÚNG TA ĐÃ LÀM GÌ CHO TỈNH NHÀ, NẾU KHÔNG PHẢI LÀ TÍCH CỰC GIỮ GÌN PHẦN ĐẤT NẦY CHO QUÊ HƯƠNG NƯỚC VIỆT NAM CHÚNG TA.

Tài liệu nghiên cứu KONTUM – MỘT ĐỊA DANH MANG TÍNH DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO đã được nhiều Trang Web trong và ngoại quốc đăng trình từ lâu. Đề tài này của chúng tôi cũng được TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO CỦA VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM ĐÃ CHO IN PHỔ BIẾN TRONG 2 SỐ 05 (95) NĂM 2011 và SỐ 06 (96) NĂM 2011. Quí vị trong Gia đình Truyền thông có thể tìm đọc trong những số vừa trưng dẫn. 
Tuy nhiên, vì khó tìm được những số 05 và 06 năm 2011 của Nguyệt San Nghiên Cứu Tôn Giáo, vì thế chúng tôi xin đăng trình trên Trang Truyền thông của Giáo phận sau đây hầu phục vụ quí vị.

GPKONTUM (20.01.2013) KONTUM.
__________________________

KONTUM – MỘT ĐỊA DANH MANG TÍNH DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO


KONTUM hôm nay vẫn còn sống và mãi mãi tồn tại. Nó có một chỗ đứng trong dòng thời gian lịch sử và trong lòng mọi người đang sống trên vùng đất đượm tình người, và biết bao hy sinh của các vị thừa sai ngoại quốc cũng như Việt Nam đã dày công xây đắp. Đến nay đã đúng  một thế kỷ rưỡi kể từ ngày đoàn truyền giáo đặt chân đến đây vào năm 1851 tại Plei Rơhai (Tân Hương ngày nay), một Trung tâm Truyền giáo cho người Bahnar-Rơngao. Khởi đầu, địa danh KONTUM nhỏ bé tựa như hạt cải, nhưng khi nó mọc lên, lớn dần, chim trời có thể đến nương náu được. Tuy nhiên, để tìm hiểu sự hình thành địa danh KONTUM và đâu là những yếu tố cấu tạo để nó chiếm lĩnh mọi mặt trên cả vùng Tây Nguyên này mãi cho đến ngày nay không phải là một việc dễ làm! Chúng tôi xin trình bày KONTUM, MỘT ĐỊA DANH TÔN GIÁO dưới những khía cạnh sau đây theo một số sử liệu ít ỏi và có giới hạn.

I. Diễn biến toàn vùng trước khi hình thành địa danh “KONTUM”.
II. Tên và ý nghĩa địa danh buôn làng trên vùng dân tộc nói chung và địa danh “KONTUM” nói riêng.
III. Yếu tố cấu tạo làm cho địa danh “KONTUM” trở nên quan trong toàn vùng.

I. DIỄN BIẾN TOÀN VÙNG TRƯỚC KHI HÌNH THÀNH ĐỊA DANH “KONTUM”

Địa danh KONTUM không xuất hiện từ xa xưa trên vùng người dân tộc Tây Nguyên này, như địa danh AYONAPAR của người Jrai, hoặc như TÂY SƠN, hay KON KƠXÂM hoặc như địa danh RƠHAI… Nhưng nó mới manh nha vào giữa thập niên 50 của thế kỷ XIX và dần dần giữ vai trò trọng yếu trong các thập niên kế tiếp, nhất là vào đầu thế kỷ XX vừa qua. Vậy, để hiểu rõ lý do nào địa danh KONTUM nhỏ bé chiếm giữ được vai trò chủ đạo so với các địa danh lâu đời khác, thiết nghĩ chúng ta cần nhìn lại tình hình toàn vùng Tây Nguyên trước khi địa danh KONTUM thai nghén và chào đời.

1. Tình hình Tây Nguyên vào thời nam tiến: vua Lê Thánh Tông

Tây Nguyên là vùng đất có một số cư dân dân tộc ít người cư trú và sinh sống. Từ xa xưa, vùng đất này là chỗ giao lưu chủng tộc hơn 10 dân tộc thuộc 2 dòng ngôn ngữ Nam Á (Môn-Khơme) và Nam Đảo (Malayô-Polymêdien). Nhóm ngôn ngữ Môn-Khơme là Bahnar, Sơđăng, Kơho, M’nông… và nhóm thứ hai Nam Đảo là Jrai, Êđê… Có lúc các bộ tộc này xung đột nhau găy gắt, cũng có khi hoà hoãn cùng nhau chống ngoại xâm.

a. Vào năm Canh Thìn (1470) [1], vua Chiêm Thành là Trà Toàn đem quân đánh phá Hoá Châu. Vua Lê Thánh Tông cử đại quân chinh phạt Chiêm Thành, chiến thắng đến tận sông Phan Rang, lấy phần đất chiếm được sát nhập và lập ra Thừa Tuyên thứ 13 gọi là Quảng Nam Thừa Tuyên, gồm 6 phủ : Thăng Ba (nay là Quảng Nam), Tư Ngãi (Quảng Ngãi), Hoài Nhơn (Qui Nhơn), Phú An (Phú Yên), Thái Ninh (Khánh Hoà), Hoà Thuận (Phan Rang), đặt dưới quyền cai trị của ông Phạm Nhữ Tăng. Phủ Hoài Nhơn gồm 3 huyện là Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn.  Phù Ly đóng tại thành Đồ Bàn [2].

Trong lần chinh phạt này, vào năm 1471, khi vua Lê đánh Đồ Bàn, Vua Chiêm là Trà Toàn bị bắt, em là Trà Toại trốn lên Thượng Nguyên châu liên lạc với các tướng Sandak Tamrac, lo việc kháng chiến. Nhưng lực lượng này còn khá mạnh ở Tây Biên và Nam Biên Vijaya. Đa Thuỷ cai trị đất Đại Chiêm (Quảng Nam) kiêm lĩnh luôn Vijaya (Bình Định) tạo thế mạnh vùng biên giới, rồi rút quân về [3]. Tuy nhiên, nhà vua mất nhiều công sức để khuất phục dân khí Vijaya.

Từ năm 1570-1611, chúa Tiên Nguyễn Hoàng áp đảo quân Chiêm. Mãi đến năm 1611, chúa Tiên Nguyễn Hoàng mới mở đất vào đến Phú Yên, thực sự dàn trải lực lượng người Việt đến biên giới Đá Bia – Đại Lãnh [4].

Năm 1629, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên sai quan phó tướng Nguyễn Phúc Vinh vào đánh dẹp trừ loạn Văn Phong, đắp thành lập dinh Trấn Biên [5] đến giữ vùng đất phía nam và phía tây. Do đó, trong thời kỳ này, Chúa Nguyễn chưa tây tiến chiếm vùng Tây Nguyên ngày nay.
b. Người Chiêm Thành có liên hệ với những dân tộc vùng núi, nhất là vùng J’rai, như vừa trình bày. Họ gọi các bộ tộc miền núi này là Kiratas tức là người Thượng [6].

Nhà Nguyễn Gia Miêu gọi Tây Sơn là Sơn Man, như trong câu:
“Dưng can kỳ thề bốn mặt cổng Tần,
  Thừa thuở Sơn Nam thất thế” [7].

Cũng vào đời Nguyễn Gia Miêu, có các phủ Trấn Man, Trấn Ninh, Trấn Biên, Trấn Định, Lạc Biên, 9 châu thuộc Cam Lộ [8].

Khi còn là Long Nhương tướng quân đem binh diệt họ Trịnh, tiếp xúc với các nhân vật Bắc  Hà, Nguyễn Huệ thường tự xưng bằng danh hiệu Hang Núi, như câu:
“Hang Núi tự ngàn dặm đem quân đến đây“.

Tên để chỉ những thổ dân miền núi Tây Nguyên thường là Mọi, Kha. Từ  “Mọi”, “Kha” cũng khá quen dùng trong dân gian, ngay cả trong văn kiện của thực dân Pháp vào đầu thế kỷ XX [9].

2. Tên gọi theo bộ tộc
 Ngoài những tên gọi tổng quát: Thượng Nguyên châu, Trấn Man, Kiritas, Sơn Man, Hang Núi, Rợ-Man, Rợ-Mọi[10]…, chúng ta cũng gặp được những danh xưng chỉ  từng dân tộc một trên vùng Tây Nguyên.

a. Để gọi người dân tộc Sơđăng, thời Gia Long, Minh Mạng gọi họ là người Vách Đá. Nhưng cũng nhiều lúc danh xưng này cũng ám chỉ các dân tộc thiểu số vùng Trường Sơn.
Người Sơđăng thường hay quấy nhiễu, Lê Văn Duyệt cho người tìm hiểu và biết được chỉ vì Lê Quốc Huy gây tội ác cho người Vách Đá. Ông cho chặt đầu Huy để phủ dụ người Vách Đá [11].

b. Vào thời kỳ Tây Sơn, người Bahnar vùng Tây Sơn Thượng (An Khê ngày nay) được gọi là Bahnar Bơnâm (Bahnar vùng dưới) [12]; dân tộc Bahnar vùng Kontum ngày nay được gọi là Rơngao.

c. Người J’rai có một cơ chế xã hội đặc biệt [13], nhất là vùng Ayonapar có vua Lửa, vua Nước. Chúng ta gọi là cơ chế Pơtao (vua). Để hiểu rõ hơn, chúng ta đi sâu hơn về cư dân ít người này:
   + Người J’rai (vùng Pleiku ngày nay) được gọi là người Hơdrung. Núi này ngày nay gọi là Hàm Rồng, nằm về phía nam thành phố Pleiku ngày nay 10 cây số.
   + Riêng người J’rai vùng Plei Kly (Phú Nhơn huyện Chư Sê) và Ayunpa ngày nay, xưa kia được gọi như thế nào?

* Truy tầm địa danh xa xưa của người J’rai vào thế kỷ XVII dựa trên bản Hiến chương của người Campuchia tại đền ở Sambốc (Campuchia). Người Campuchia gọi vùng đất của vua Lửa và vua Nước là AYONAPAR (chỉ vùng đất của 2 con sông lớn tạo nên là Ayun và Apar mà nay thường gọi là sông Ba, đổ ra biển phía Phú Yên), nhưng thực chất nó bao hàm cả vùng đất triền phía Tây đến lãnh thổ Campuchia[14].

* Từ thế kỷ XVI, mối quan hệ chính trị giữa vùng đất này với các triều đình phong kiến đã xuất hiện, dù lỏng lẻo, mập mờ. Trong Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ [15] có nói đến 6 Bộ và những công sở của Kinh Thành. Những tờ trình về mối bang giao với Trung Quốc, với các thuộc cốc như Vạn Tượng, Nam Tưởng, Cao Man, Thuỷ Xá và Hoả Xá, Xiêm, Miến Điện thì có khá nhiều. Thay vì dùng địa danh chỉ vùng đất, người ta cũng dùng tên của các vua người J’rai để chỉ vùng lãnh địa chiếm cứ của vua Lửa, vua Nước và lãnh thổ của hai vị vua này ở Nam Bàn [16].

* Theo Hoàng Việt Địa Dư Chí, quyển I từ trang 12A đến 13A [17], vùng đất vua Lửa và vua Nước, hoặc các mối bang giao được ghi nhận rõ ràng và tương đối chi tiết, như nói đến những trao đổi tặng phẩm giữa Triều đình Huế,  nhất là vua Minh Mạng với hai vị vua này. Nhà vua “đã ban cho tên họ và chiếu sắc đã viết thẳng ra là Quốc Trưởng nước Thuỷ Xá cùng truyền cho Bộ Lễ rằng từ nay về sau nước ấy có dâng cống thì trong tờ biểu văn cũng viết là Quốc trưởng cho đúng danh xưng” [18].

* Nhưng vào cuối thế kỷ XIX, trước khi thực dân Pháp sang, theo ông Đặng Nghiêm Vạn và tập thể giáo sư cho rằng vùng đất Ayonapar được gọi hẹp lại bằng tên Cheoreo do hai anh em ông “Chu và Chreo bắt đầu tổ chức được một liên minh các làng Chor với một bộ máy hành chính thường xuyên tương ứng với đơn vị cao hơn làng” [19].

II. TÊN VÀ Ý NGHĨA ĐỊA DANH NƠI NGƯỜI DÂN TỘC

Học hỏi địa danh nhất là tại vùng dân tộc lại không tìm hiểu một vài nền tảng và ý nghĩa việc đặt tên làng vẫn chưa đầy đủ. Chúng tôi xin chuyển qua vấn đề đặt tên và ý nghĩa địa danh, trước khi đi sâu hơn yếu tố nào địa danh KONTUM có một chỗ đứng cho đến những năm gần đây.  
Thật vậy, đối với người dân tộc Tây Nguyên, việc đặt tên làng rất quan trọng, vì nó nối kết với thế giới yang, hồn; nói cách khác với thế giới “iôn tâu” (bên kia) như người Rơngao thường nói. Chúng ta điểm qua một số nền tảng, tiêu chuẩn đặt tên buôn làng trước khi chúng ta đi sâu vào sự hình thành địa danh KONTUM.

A. Nền tảng việc đặt tên – ý nghĩa của địa danh buôn làng nơi người dân tộc nói riêng

1. Những nguyên tắc, nền tảng để đặt tên buôn làng
Đối với người Kinh, thường thường chúng ta dựa trên ý niệm về cái đẹp, cái đức, cái phong nhiêu… nói chung là một ý niệm trừu tượng, một ước mơ hoặc danh xưng của một nhân vật có công để đặt tên cho làng: Tân Hương (nơi sinh sống mới); Phương Nghĩa (nơi, quê hương có lòng nhân ái; Phương Hoà (nơi đoàn kết thuận ý nhau), Phương Quý, Phú Bổn… Trái lại, người dân tộc cư dân tại Tây Nguyên không có từ trừu tượng siêu hình, mà họ quan tâm đặc biệt những vật thể hoặc con người gắn chặt với cuộc sống cụ thể như đồ vật, đất đá, sông suối ao hồ, núi rừng núi… bao quanh họ để đặt tên cho buôn làng thân yêu của họ. Nhưng tất cả có một yếu tố căn bản là mối tương quan với thế giới bên kia, với yang.

Để hiểu phần nào về vấn đề nối kết giữa thế giới này với thế giới bên kia, chúng tôi xin ghi lại vài đoạn của linh mục J. Kemlin trong cuốn “Les songes et leur interprétation” chez les Reungao,  Hà Nội năm 1910, tr. 17 như sau:
“Iôn kô” hay “iôn tau” là “từ bên này” cũng như “từ bên kia” mà chính hồn thấy, và hành động trực tiếp hoặc gián tiếp qua thân xác. Như vậy, có những lý do để tin vào hiện thực của giấc chiêm bao của chúng ta, cũng như có những lý do để tin vào tính khách quan của điều ta thấy, nghe và hành động trong trạng thái thức vậy (…)”.

“(…) Tuy nhiên, chúng ta cũng lưu ý là nền tảng của lòng tin này còn sâu xa hơn, và được đặt trên quan niệm ‘lấy cái tôi làm chuẩn’, mà người thượng gán cho vũ trụ. Khi thấy vô số sự bất bình đẳng và những chuyện kỳ quặc của thiên nhiên làm cho họ giải thích nổi, tự nhiên họ đâm ra tưởng tượng nguyên nhân của chúng nằm trong biện chứng nội tại nơi từng sự vật, một sự xung đột biến đổi từng ngày và từng hoàn cảnh, như tính khí của người vậy. Nói tắt, họ đã thấy trong mọi vật thể một chủ thể được sinh động như họ và có cùng đam mê như họ”.
Nói cách khác, tất cả mọi vật đều có nguyên lý sống động và tác động đối với thế giới con người. Cái nguyên lý đó là “hồn” được người Rơngao gọi là “mơhol”, người Bahnar gọi là “pơhngol” hay “pơngol”, người  Sơđang dơdrah gọi là “mơhua” và người J’rai gọi là “mơngăt”. Sức lực của nguyên lý sống động đó được gọi là “ai”. “AI” của con người có tác động ảnh hưởng trên con vật và đồ vật, và ngược lại. “Ai” của con vật hoặc đồ vật hợp với “ai” của người nào đó, mọi sự đều tốt đẹp; mà ngược lại sẽ đổ vỡ, bất thành, là không ích lợi. Với quan niệm đó, việc đặt tên buôn làng rất quan trọng để cho có sự hoà hợp giữa các “ai” với nhau, nghĩa là giữa các hồn với nhau.

Mặt khác, cũng theo quan niệm của người dân tộc, một người giàu có, một người tài giỏi, một người đứng đầu, một thủ lãnh, ông vua chẳng những có một “mơhol” chính, mà còn nhiều “mơhol” phụ, tự như đoàn quân gìn giữ nhà cửa tài sản. Hồn của họ sau khi ra khỏi thân xác có thể thành một loại thần, dân làng có thể kêu khấn, trong khi đó, hồn của thứ dân xuống “mang lung” (âm ti). Do đó, người dân tộc thường đặt tên làng theo tên người lập làng cũng là việc thích hợp và hữu ích để “ai” của ông giúp dân làng do ông đã vất vả xây dựng.
Ngoài ra, nơi sông suối ao hồ, núi rừng, cây cối và cả đất đá… cũng có thể có yang trú  ngụ. Cần cúng cho các yang để các yang tốt giúp đỡ cho dân làng hoặc để vô hiệu các yang xấu. Vì thế, cần một kết giao với các yang để ta được bảo hộ sống an vui hạnh phúc [20]. Do quan niệm đó, người dân tộc thường dùng tên sông, suối, ao hồ nơi họ sinh sống để đặt cho tên làng.
2. Phân loại các địa danh buôn làng theo một số tiêu chuẩn cụ thể.

Đặt tên làng thêm tên chủ làng, nói đúng hơn là gọi tên con của chủ làng, ví dụ: làng của cha (hoặc mẹ), thằng (ông, bà…):
*  Bon ama Djơng (làng của cha ông Djơng).
*  Bon ama H’Nher (làng của cha bà H’Nher).
*  Bon mi Hoanh (làng của mẹ ông Hoanh).
*  Ban mi (mê) Thuột (làng của mẹ ông Thuột).
(cũng có lúc gọi Buôn ma Thuột “làng của cha ông Thuột”).

Đặt tên làng theo tên chủ làng và được xác định rõ hơn bằng vùng đất đó như thế nào
*  Bon Rưng ma Rin (làng có đất sỏi đá của cha ông Rin).
*  Plei Rơngol ama Drung (làng cũ của  cha ông Drung).
Tên làng theo phương hướng vùng đất
*  Pleiku (làng đuôi) (có dịp sẽ bàn thêm về ý nghĩa).
*  Pleiku Roh (làng ngoài bìa).
*  Pleiku Ngo ( làng phía đông Pleiku).

Tên làng theo thổ sản
+ Đa số dân làng người dân tộc sống với 2/3, nếu không nói là đa phần bằng thổ sản của rừng núi và họ đặt tên làng theo thổ sản đặc chủng đó:
*  Dak Sut (làng có nhiều mật ong).
*  Kon Tơneh (làng có nhiều mây).
*  Kon Xơmluh (làng có nhiều cây như cây le).
*  Kon Klor (làng có nhiều cây gạo).
*  Plei Kơbei (làng có nhiều trâu rừng).
*  Plơi Pa Ơi Briu cũng gọi là Plơi chroh Tơnung (làng hồ có loại cây Tơnung).

 Tên làng dựa vào loại đất, đá
*  Plei Kly (Plei Tơly: làng có nhiều đá).
 Dựa vào sông suối, núi rừng
*  Bon chroh Kơnong (làng suối Kơnong).
*  Đak Tô (làng có suối nước nóng).
*  Dak Tơkan (làng sông Tơkan).
*  Plei Athai (làng ở núi Chư Athai).
*  KONTUM (làng có hồ, làng hồ).

B.  HÌNH THÀNH ĐỊA DANH KONTUM

1.  Theo nguyên ngữ KONTUM
KON: làng; TUM:  hồ. KONTUM là LÀNG HỒ.

2. Tuy nhiên, tầm nguyên địa danh KONTUM theo khía cạnh chuyển hoá như thế nào trong lịch sử của nó không phải là việc đơn giản, nhất là địa danh mang nhiều khía cạnh thời cuộc như địa danh KONTUM.

Thật vậy, khi các vị thừa sai đặt chân đến làng Breng, sau được đổi là Rơhai (nhiều lần đổi tên, sau cùng vào năm 1926 được đổi thành Tân Hương) vào những năm 1851-1852 chưa có làng Kontum. Khi đặt xong cơ sở ở Rơhai, Cha Do nghĩ ngay cần tạo lập các nông trường để tự cung cấp, đồng thời là môi trường định canh định cư để nâng cao đời sống dân sinh, văn minh cho các anh em người dân tộc bản địa, trước mắt cho những người dân tộc mới tòng giáo và như tiền để cho các làng dân tộc khác noi theo. Ngài lần lượt mở ra các nông trường như Dak Kâm và vùng đất DAK TUM phía đông Rơhai. Ngoài ra, cha nới rộng phạm vi hoạt động truyền giáo nên thầy Thám, em ruột của Cha và thầy Lai đưa người nhà cũng như một số bị nô lệ được chuộc lại đến phát rẫy bên bờ hồ DAK TUM này, cách Rơhai hơn 1 cây số về hướng đông. Gần đó có làng nhỏ người dân tộc, gọi là làng MÔER, do 2 anh em JRÔNG và UÔNG, con bà Yă Xi cầm đầu. Gia đình này nguyên trước đó ở làng KONTRANG-ÔR trên bờ sông BLA, hiện giờ là CHUAH-ORENG, mà người Kinh gọi là CHẢ-RENG, dưới chân núi Chư Reng (CHƯ được người Bình Định đọc thành CHẢ). Kontrang Ôr khá lớn do các ông Mung, Bung và Loih lãnh đạo. Những người này tính khí hung tợn, tàn bạo thường khiêu chiến với  bên ngoài và ức hiếp dân làng. Do đó, hai ông Jrông và Uông tìm cách ra khỏi làng và đến lập  làng Môer nơi hồ Dak-Tum.

Khi cơ sở do thầy Thám xây dựng bên bờ hồ Dak-Tum đã hình thành, có nhà ở, có rẫy lúa, có dân cư, cha Hòa từ cùng người Pnong (cũng gọi là M’nong vùng Dak-Lak ngày nay), vì không thể tiếp tục ở Trung tâm Truyền giáo Pnong, đã dẫn một số gia đình người Pnong thật sự tòng giáo và người giúp kẻ ăn người ở cũng như một số  thầy giảng về Trung tâm Truyền giáo Rơhai [21]. Cha Bề trên phái Cha Hoà làm phó Cha Do, phụ trách khu vực mới khai khẩn Dak-Tum này vào năm 1856.

Cha Hoà rất được đồng bào Kinh và dân tộc mến phục. Làng Môer về ở với cha. Dần dần làng Kontrang-Ôr không chịu được thái độ hung hãn của các tên đầu sỏ trong làng, cũng kéo về sáp nhập xóm Dak-Tum của cha, thành một làng lớn. Từ đó, Dak-Tum được đổi thành làng KONTUM cho đến ngày nay.

III. NHỮNG YẾU TỐ CẤU TẠO LÀM CHO ĐỊA DANH KONTUM TRỞ NÊN QUAN TRỌNG TOÀN VÙNG TRUYỀN GIÁO

Như trình bày trong phần I, trong những thế kỷ trước, ngay cả thế kỷ XIX có những vùng quan trọng như Ayonapar của 2 vị vua Lửa, vua Nước, An Sơn (An Khê ngày nay). Ngay trong cùng khu vực truyền giáo, làng Rơhai vào những năm khi lập vùng truyền giáo cho người dân tộc Bahnar (1851-1888) vẫn có tầm mức trổi vượt hơn làng Kontum nhỏ bé. Vậy đâu là những nhân tố biến làng Kontum dần dần chiếm lĩnh vai trò chủ đạo cả vùng truyền giáo các dân tộc Tây Nguyên? Để có một tầm nhìn tổng hợp, chung tôi xin lần lượt trình bày Trung tâm Truyền giáo cho người Bahnar-Rơngao, đó là RƠHAI và sau đó trình bày một số gốc cạnh khả dĩ thay đổi từ một làng KONTUM nhỏ bé trở thành một địa danh quan trong toàn vùng Truyền giáo, ngay cả mặt xã hội chính trị cho đến thời cận đại.

A. Trung Tâm Truyền Giáo RƠHAI cho người Bahnar-Rơngao
I. Trung tâm Truyền giáo RƠHAI này kinh qua nhiều giai đoạn
1.  Giai đoạn nguyên sơ (1851-1871)
Trong giai đoạn đầu, công cuộc truyền giao tại vùng người dân tộc Bahnar-Rơngao, RƠHAI có một tầm mức quan trọng. Khi các vị thừa sai tìm ra được vùng đất bằng, rộng bên hữu ngạn sông Dak-Bla, như Đức cha Cuénot Thể, Đại diện Tông toà Đông Đàng Trong đã lưu ý các ngài trước, các ngài tìm mua một nhà gỗ của người dân tộc tại làng BRENG. Cha Desgouts và Thầy Sáu DO (thụ phong linh mục năm 1853 và mất năm 1871) nhận thấy dân làng Breng vốn dân tứ chiếng, mê tín dị đoan, nhiều tật xấu, nên quyết định lập một làng mới, gần đó, gọi là RƠHAI gồm vài người Kinh, là người nhà của cha và vài người dân tộc.
Trong khi Thầy Sáu DO về Gò Thị (Bình Bịnh) chuẩn bị thụ phong linh mục (từ 1852)  đến khi tân linh mục trở về vùng Bahnar (thụ phong tháng 7-1853), Cha Desgouts đảm trách mục vụ và chuẩn bị xây dựng cơ sở cho chủng viện tương lai. Khi Cha DO lên vùng Truyền giáo với tư cách linh mục, ngài xúc tiến tạo lập thôn làng trong hướng “định canh định cư“, nên tổ chức nông trường đầu tiên Rơhai này. Mùa lúa thu hoạch khấm khá, đời sống xã hội, tôn giáo tương đối ổn định. Do đó, dần dần dân làng khác đến xin nhập làng để sinh sống. Trong thời gian này, các cha cũng có chuộc lại một số người Kinh bị người dân tộc bắt bán làm nô lệ [22] và ngay cả người dân tộc bị làm nô lệ cũng được chuộc về, dạy họ làm ruộng rẫy bằng phương pháp hiệu quả hơn là chọt trỉa kiểu du canh du cư.
  Cho nên trong giai đoạn đầu (vào những năm 1851-1871), về địa bàn dân cư, RƠHAI  gồm:
+ Khu vực nhà thờ và nhà xứ Tân Hương hiện nay.
+ Khu vực Trường Têrêxa và Hội  trường Bok DO (nay là trường và nhà văn hoá).
+ Phía nam giáp sông Dak-Blah (nay thường gọi là Dak-Bla).
+ Phía bắc giáp đường Ngô Quyền.
2.  Giai đoạn hai (1871-1912)
Bắt đầu có nhiều người Kinh, Rơhai nới rộng ra gọi là XÓM MỚI. Những người Kinh này chủ yếu là những người trốn tránh các cuộc bắt hại đạo tại địa phận Đông Đàng Trong (sau được gọi là Qui Nhơn vào năm 1824), như một số gia đình thuộc họ Đồng Hâu, Đồng Quả qua ngã Ngãi Điền, rồi vượt qua Trạm Gò (Cửu An, đông bắc An Khê ngày nay), mon theo đường các cha đi trước đến Rơhai hoặc sau này do nạn Văn Thân tàn sát vào năm 1885. Vào năm 1873, số người Kinh sinh sống tại đây là 542 người, thành lập họ đạo và được gọi là Trại Lý. Và vào năm 1909), Cha Bề trên Truyền đặt cho một tên khác theo thổ sản là GÒ MÍT [23].
 3.  Giai đoạn ba (1912-1932)
Giai đoàn này, vùng đất dân cư họ Rơhai nới rộng thêm từ nhà thờ chạy giáp làng Phương Nghĩa (họ Phương Nghĩa hình thành dần dần từ 1870-1880) [24]; nam giáp làng Kon Hơra, bắc giáp đường Trần Hưng Đạo đầu trên và Nguyễn Đình Chiểu phía đầu dưới. Từ Nhà thờ Tân Hương đến giáp Phương Nghĩa gọi là Xóm Trên thuộc Giáo xứ Tân Hương.
4.  Giai đoạn bốn (1932 -1947)
Làng dân tộc Rơhai bên này sông phải dời sang bên kia sông (tả ngạn sông Dak-Bla, chỗ hiện tại) vào năm 1931. Làng Dơnơng sáp nhập với Plei Tơngia, phải để cho tiểu đoàn Sơn Cước BT MSA do quân đội Pháp thành lập chiếm trọn khu vực nằm phía tây đường Trần Phú. Phía đông đường Trần Phú giao trực thuộc cho địa sở Tân Hương để thiết lập cơ sở văn hoá giáo dục.
5.  Giai đoạn năm (1947-1975)
Theo đà tiến của địa phương, đồng bào Công giáo kinh cư ngụ khắp nơi trong thị xã, thuộc Giáo xứ Tân Hương (chính thức đặt tên Tân Hương vào năm 1926), và giai đoạn này, giáo xứ không còn giới hạn trong phạm vi “Xóm Dưới” “Xóm Trên” nữa, mà đã bao trùm cả Trung Lương, Lương Khế, Võ Lâm. Tuy nhiên, về phương diện hành chính, ranh giới của làng Tân Hương không thay đổi.
6. Giai đoạn sáu (1975-2000)
Sau biến cố tháng 3-1975, vùng đất thuộc Giáo xứ Tân Hương quản lý phải thu hẹp lại  như hiện trang hôm nay.
II. Về cơ sở
Tân Hương có nhà thờ
Vào năm 1853, Cha Do từ khi lên lại Rơhai bắt tay xây dựng một nhà thờ theo dáng nhà dân tộc cũng khá rộng rãi và đẹp mắt.
Năm 1858, nhà thờ này bị hoả hoạn vào dịp Giáng Sinh. Năm 1860, với sự đóng góp của các gia đình Công giáo, một nhà thờ thứ hai hoàn thành, không đẹp, có tính cách tạm bợ.
Năm 1869, chương trình xây cất nhà thờ lớn, có tính cách kiên cố được khởi công. Toàn thể gia đình Công giáo Kinh cũng như dân tộc góp công sức tìm cách danh mộc, đốn và chuyển về, thuê thợ giỏi về xây dựng. Năm 1871, nhà thờ mới được dựng lên: rui mè lợp xong, ván chưa lót, cửa chưa dựng, vách chưa tô trét. Năm 1872, vì tuổi già, Cha Do về dưỡng bệnh tại quê nhà là Đồng Hâu và qua đời sau đó tại đây. Cha Hugon (Cha Xuân) thay Cha Do. Cũng trong năm đó (1872), giặc Kon Kơban xuống đánh Rơhai, cướp phá, nên mãi đến năm 1876, nhà thờ mới hoàn thành và được Cha Bề trên Dourisboure Ân làm phép nhà thờ mới.
Năm 1902, Cha Ngự (Cha Demeure) hạ nhà thờ này để làm lại nhà thờ mới. Nhà thờ này chính là nhà thờ hiện nay, chưa có mặt tiền. Năm 1916, nhà thờ được tu sửa lần thứ nhất đời Cha Hiền (Cha Alberty); tu sửa lần hai vào năm 1926: mặt tiền xây bằng gạch, giữ nguyên trạng cho đến nay. Mới đây có tu sửa nhỏ để tránh mục nát mặt tiền và gia cố phần chân đế các trụ nhà… nhưng vẫn giữ nguyên cấu trúc và dáng dấp xưa.
Ngoài ngôi thánh đường cổ kính và được xây dựng nhiều đợt, Tân Hương cũng là nơi được đầu tư nhiều cơ sở văn hoá của vùng Truyền giáo như dự định của Đức cha Cuénot Thể thiết lập chủng viện trên vùng cao, được giao cho Cha Desgouts vào năm 1900, có tổ chức các lớp dạy học văn hoá, xoá nạn mù chữ cho giới thanh niên nam nữ người dân tộc. Năm 1931, Cha Alberty Hiền xây cất trường Têrêxa bên hông phía tây nhà thờ, giao cho các nữ tu Mến Thánh Giá Gò Thị điều khiển. Ít năm sau, vào năm 1940, trường được giao lại cho Dòng Bác Ái Vinh Sơn phụ trách, dành cho nữ sinh, và sau đó, cha sở cho mở thêm một trường cho nam sinh.
B. Địa danh “KONTUM” với những nhân tố đặc thù
Nhìn chung, từ nhân sự, cơ sở tôn giáo – chưa kể cơ sở hành chính dân sự, sinh hoạt kinh tế từ các năm cuối thế kỷ XIX đến nay đều nằm trong cùng địa bàn dân cư  là Trung tâm Truyền giáo RƠHAI, sau này đổi thành Tân Hương -  phát triển mạnh cũng có nhiều ưu thế về các mặt tôn giáo lẫn dân sự như vừa trình bày trên. Nhưng vì những nguyên nhân nào, làng Kontum từ một nông trường, lúc khai lập còn lệ thuộc vào Rơhai về khía cạnh tôn giáo, xa khu vực hành chính và kinh tế, dần dần đã trở nên quan trọng, đến nỗi sau này nó trở nên một địa danh quan trọng nhất của toàn vùng xét về khía cạnh tôn giáo và hành chính dân sự? Đâu là những yếu tố cấu tạo nên truyền thống vững chắc để địa danh “KONTUM” còn sống mãi và gần như trở thành một huyền thoại mang một sức sống nội tại cho cả vùng Truyền giáo Tây Nguyên, đến nỗi ngày nay vẫn còn sức thuyết phục, làm say mê và thu hút nhiều nhà nghiên cứu chân chính trong cũng như ngoài nước? Chúng tôi xin trình bày trong phần sau đây.
I. GIAI ĐOẠN 1851-1908
Họ đạo KONTUM khởi đầu nhỏ bé, chỉ là nông trại sản xuất nông sản và là một họ nhánh của Trung tâm Truyền giáo Rơhai [25]. Tuy nhiên, họ đạo Kontum cũng có những yếu tố địa lý, con người và tôn giáo làm cho nó dần dần chiếm giữ vai trò chủ đạo toàn miền truyền giáo.
1. Giai đoạn 1851-1882
* Vùng đất – địa lý
Xét về phương diện vùng đất, làng Kontum mới được khai hoang, đất rộng, màu mỡ thuận lợi cho canh tác vì bằng phẳng, có nhiều nước, không bị úng… có thể tự cung tự cầu cho họ đạo. Ngoài ra, địa bàn nông trại Kontum có nhiều mặt bằng thuận tiện để xây dựng các cơ sở cần thiết cho toàn vùng Truyền giáo sau này như chủng viện, Toà Giám mục, các dòng tu, cơ sở giáo dục… cấp địa phận. Vả lại, vũng đất này có triển vọng mở rộng an toàn đón nhận số anh em dân tộc từ  phía Đông và Đông bắc của Trung tâm Truyền giáo Rơhai.
* Mặt an ninh
Vùng đất làng Kontum nhờ có sông Dak-Bla bao quanh phía đông và đông bắc, tránh được những vụ cướp bóc như Rơhai đã bị vào năm 1876.
* Yếu tố con người linh mục: Cha Hoà
Yếu tố con người rất quan trọng để định vị cho làng Kontum sau này. Đó là vai trò của các linh mục phụ trách họ đạo này: trước hết là Cha Hoà, sau đó là vai trò quốc tế của Cha Bề trên Vialleton Truyền, Đại diện Giám quản Tông toà Đông Đàng Trong (1882-1909).
- Thật vậy, trong suốt thời gian 1856-1861, Cha Hoà, một linh mục bản xứ được mọi người mến phục, đã xây dựng thành công một làng đoàn kết, một họ đạo có truyền thống, nề nếp và sốt sắng. Cha tạo lập được một cộng đoàn tín hữu người dân tộc từ năm đầu tiên (1856) khi đặt trên đất Rơhai, đó là số người dân tộc Pnong theo ngài về vùng Truyền giáo Bahnar-Rơngao. Trong khi đó, người dân tộc làng Rơhai mãi đến năm 1875 mới tòng giáo. Số giáo dân Kinh tại Kontum được hình thành lâu bắt đầu từ năm 1870, trong khi đó họ đạo người Kinh tại Trung tâm Truyền giáo Rơhai hình thành vào năm 1874 với tên là TRẠI LÝ [26] (Tân Hương ngày nay). Nói cách khác, cộng đoàn dân tộc và người Kinh tại họ Kontum tòng giáo và hình thành sớm hơn và nề nếp hơn Trung tâm Truyền giáo Rơhai. Có thể đưa ra một số lý do như sau: một mặt, người dân tộc tại Trung tâm Rơhai thuộc nhiều thành phần đến, nhất làng bị ảnh hưởng dân làng Breng tứ chiếng, ô tạp, mê tín dị đoan sống bên cạnh, và cũng chính vì lý do đó mà Cha DO đã tạo lập một làng mới gọi là RƠHAI bên cạnh làng Breng này; còn người Kinh phần lớn phải khai khẩn vùng nông trại Dak-Kâm. Trong khi đó tại họ Kontum, vào giai đoạn mới tạo lập, được Cha Hoà trực tiếp hướng dẫn cùng làm cùng sinh hoạt với anh em người dân tộc cũng như người Kinh.
- Giai đoạn 1861-1888: Sau khi Cha Hoà lâm bệnh nặng, thuyên chuyển về Ninh Hoà và qua đời (1861), họ đạo Kontum trực thuộc trở lại Trung tâm Truyền giáo Rơhai cho đến năm 1882, năm Cha Vialleton Truyền đến đảm trách họ đạo này. Nhưng nhờ tổ chức cũng như tinh thần đoàn kết của người dân tộc sẵn có, nhất là nhờ vị mục tử mới – Cha Vialleton Truyền – trực tiếp đặc trách họ đạo Kontum giải quyết cách khôn ngoan và kiên quyết những vấn đề của cả vùng Truyền giáo mà họ đạo nhỏ bé này vẫn vững tiến dù phải trải qua một giai đoạn cực kỳ khó khăn chung của cả vùng truyền giáo Tây Nguyên.
Có thể nói trong giai đoạn này, hay chính xác hơn giai đoạn từ năm 1850-1888 là giai đoạn anh hùng của Hội Truyền giáo vùng dân tộc. Người ta không thể hiểu nổi những vất vả, cực nhọc của các vị thừa sai như thế nào. Chỉ có Chúa mới thấu suốt những vất vả, ê chề của của các ngài. Trong số 17 vị thừa sai Pháp và 5 vị thừa sai Việt Nam, 15 vị đã ngã gục mà thành quả không hơn 1.000 người tòng giáo. Cuộc truyền giáo như giẫm chân tại chỗ. Tuy nhiên, trong giai đoạn như bị cô lập hoàn toàn trong vùng rừng núi, thiếu hụt mọi thứ, nhất là thời gian phong trào Văn Thân (1885) tàn sát tại Trung Châu và An Khê, các ngài đứng vững và đón nhận các tín hữu Kinh thoát thân khỏi cảnh tàn sát chạy lên tá túc vùng Truyền giáo tại làng Kon Jơdreh, nhất là tại làng Kontum của Cha Vialleton. Làng Kontum, họ đạo Kontum nghĩa hiệp, rộng 2 cánh tay đón nhận các anh em tín hữu Kinh bị bắt bớ tại quê hương mình lên ẩn náu chờ ngày hồi hương. Chẳng những làng Kontum mà còn nhiều cụm dân cư người Kinh hình thành dần đông thêm và tạo lập thành làng PHƯƠNG NGHĨA (1870-1880), Trại Lý (1874), Ngô Trang (1885) và những năm sau này như Phương Hoà (1903), Quý Phương (1904), Ruộng Lào (1933)… Vấn đề người Kinh lên lập nghiệp sinh sống tại dãy Trường Sơn giai đoạn đầu chỉ là vấn đề giải quyết tình thế cho một số người bị bắt làm nô lệ hoặc phải trốn chạy khỏi cuộc bắt đạo, nhưng dần dần nhiều vấn đề liên quan đến mục vụ và xã hội cũng như trong khung cảnh chính trị đã nảy sinh nhiều khía cạnh cần được các vị bề trên phải giải quyết. 
2. Vai trò của Cha Bề trên VIALLETON TRUYỀN (1888-1908): thời kỳ tốt đẹp
a. Trong vòng 15 năm, hàng ngàn người dân tộc xin tòng giáo. Trước đó, các vị thừa sai quanh quẩn vùng Bahnar, nay ra đi đến mọi hướng. Đây là giai đoạn dưới quyền bề trên là Cha Vialleton Truyền (1881-1909), Đại diện Giám quản Tông toà Đông Đàng Trong. Vùng Truyền giáo Tây Nguyên phát triển mọi mặt, về bề ngoài cũng như chiều sâu. Uy tín của Cha Bề trên Vialleton vang ra khỏi vùng dân tộc, lan rộng khắp đất nước Việt Nam. Do đó, địa danh  KONTUM, nơi Cha Bề trên Vialleton phụ trách, trước đây là một làng, một họ đạo rất nhỏ bé, nhờ vai trò của ngài mà được mọi người biết đến, qua những giao dịch thư từ, cũng như văn kiện tôn giáo và xã hội, chưa kể đến những lần tiếp xúc của các quan chức đạo đời. Và như thế, địa danh Kontum còn đồng nghĩa Vùng Truyền giáo cho người dân tộc, dù cũng còn mơ hồ theo giới hạn địa lý đối với nhiều người.
b. Mặt khác, cũng trong thời gian này, tình hình an ninh vững chắc hơn cho cả vùng. Vai trò của các vị thừa sai nói chung, vai trò của Cha Bề trên nói riêng trong việc thống lĩnh được tình trạng vô chính phủ trước đây là điều không thể phủ nhận. Cho nên địa danh Kontum đã vượt ra khỏi một điểm truyền giáo nhỏ bé, để trở thành biểu tượng cho cả vùng truyền giáo rộng lớn. Trong Annales MEP năm 1912, số 89, tr. 289 có ghi:
“Mười năm trước đây, Kontum chỉ là một làng rất nhỏ bé, nhưng dưới sự thúc bách của vị thừa sai của mình, nó đã trở nên to lớn nhiều và trở nên một vùng tuyệt đẹp cho các tín hữu“.
Hoà ước giữa chế độ thực dân Pháp và triều đình phong kiến Huế vào năm 1874, cũng như hoà ước ngày 28-8-1883, buộc Triều đình phong kiến uỷ cho người Pháp trấn giữ biên giới Việt Nam, nhưng miền Cao Nguyên Trường Sơn vẫn là nơi tranh chấp giữa chính phủ Pháp và Thái Lan. Vì tình thế đó, sự hiện diện của Thầy Sáu Do, biệt danh thân thương của Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Do, nhờ liên minh vững chắc giữa các làng người dân tộc Bahnar và Sơđang, đặc biệt uy tín của các vị thừa sai, nhất là uy thế trổi vượt của vị Bề trên Vialleton Truyền trong vùng đất được các ngài đã đổ bao mồ hôi nước mắt để gieo vãi Tin Mừng, đều cần thiết và có tính quyết định giành lại phần thắng thế cho Việt Nam trong tranh chấp này. Trong bối cảnh lịch sử đó, lá thư của quan Toàn quyền Lào gửi cho vị Bề trên Vialleton Truyền như  minh nhiên công nhận vai trò trổi vượt toàn vùng của địa danh KONTUM về mặt hành chính từ năm 1898 [27].
c. Do đó, ít nhất vào nửa cuối thế kỷ XIX (7-3-1898), như công văn được Cha Guerlach trích dẫn trong tài liệu “L’Oeuvre néfaste” cho biết, địa danh KONTUM không chỉ là một họ đạo mà còn có ý nghĩa hành chính cho cả vùng truyền giáo của các vị thừa sai. Tuy nhiên, cho đến lúc đó ranh giới vùng KONTUM theo mặt hành chính chưa rõ ràng cũng như vùng truyền giáo KONTUM còn nằm phía trước, có phần mơ hồ vì quá bao la gồm cả vùng Tây Nguyên, vùng Hạ Lào và cả vùng giáp ranh bắc Campuchia [28].
3. Địa giới Kontum theo khía cạnh hành chính từ 1898-2000
 Do những khía cạnh vừa trình bày ở trên, để minh định ranh giới vùng KONTUM về mặt hành chính, chúng tôi trình bày KONTUM tương quan với các đơn vị hành chính như Dak-Lak và Plei-Ku từ cuối thế kỷ XIX đến nay.

 ·  KONTUM [29]
Năm 1898: Người Pháp đặt Toà Đại lý Hành chính tại Kontum và uỷ nhiệm cho Linh mục Vialleton Truyền làm đại lý.
Năm 1905: Ngày 13-7, thành lập tỉnh Pleiku-Der (bao gồm Kontum), tách khỏi Lào.
Năm 1907: Ngày 2-5, sáp nhập tỉnh Pleiku-Der vào Qui Nhơn. Ngày 12-7: Pháp lại chia tỉnh này thành 2 Đại lý: Đại lý Kontum trực thuộc Phủ Toàn quyền Qui Nhơn;  Đại lý Cheoreo thuộc Sông Cầu (Phú Yên). Ngày 27-10: Guenot đến Kontum và làm Đại lý Kontum. Toà Đại lý sau đổi thành Toà Công sứ Kontum.
Năm 1911: Sabatier đến Kontum giữ vai trò công sứ thay Guenot.
Năm 1913 [30]: Ngày 9-2, Toàn quyền Đông Dương lại thành lập lại tỉnh Pleiku-Der, lấy tên là tỉnh Kontum. Tỉnh Kontum bao gồm cả phần đất Gialai, Kontum và ĐắcLắc hiện tại.
Năm 1917: Ngày 14-2, vua Khải Định ban chỉ dụ được Quan Toàn quyền Đông Dương, chuẩn y ngày 28-3-1917, đem các tổng Tân Phong, An Khê thuộc tỉnh Bình Định sát nhập vào tỉnh Kontum. Ngày 14-11, Toàn quyền Đông Dương lập Đại lý hành chính An Khê thuộc quyền công sứ tỉnh Kontum, gồm cả 2 khu vực huyện Tân An va khu vực người dân tộc thiểu số.
Năm 1923: Ngày 2-7, Toàn quyền Đông Dương lại lập lại tỉnh mới ĐắcLắc.
Năm 1925: Ngày 24-5, Toàn quyền Đông Dương lập lại đại lý hành chính ở Pleiku, thuộc tỉnh Kontum.
Năm 1929: Ngày 3-2, Toàn quyền Đông Dương lập lại 2 thị xã Kontum và Pleiku.
Năm 1932: Ngày 24-5, Toàn quyền Đông Dương lại tách một phần đất phía nam tỉnh Kontum để lập tỉnh Pleiku. Địa giới các huyện Mang Yang, K’Bang, An Khê, Kon Chro hiện tại vẫn thuộc tỉnh Kontum. Toà Đại lý hành chính của Pleiku cũng được đổi thành Toà Công sứ.
Năm 1943: Ngày 9-8, vùng An Khê tức là các huyện phía đông hiện tại của tỉnh Gialai được sát nhập về Pleiku.
Năm 1949: Thực dân Pháp trao trả độc lập cho Bảo Đại.
Năm 1950: Ngày 15-4, Bảo Đại ký đạo dụ số 6 đặt các tỉnh và các miền thượng du Nam và Bắc trực tiếp thuộc quyền Quốc Trưởng Bảo Đại: Thiết lập Hoàng Triều Cương Thổ, trực thuộc Quyền Quốc Trưởng Bảo Đại. Bãi bỏ Toà Uỷ viên Pháp. Ngày 25-7, chính quyền Bảo Đại ký sắc lệnh số 3 đặt các tỉnh ĐắcLắc, Đồng Nai Thượng, Lâm Viên, Pleiku và Kontum thành địa phận hành chính riêng biệt gọi là Cao Nguyên miền Nam thuộc Hoàng Triều Cương Thổ dưới quyền một uỷ viên Đức Quốc Trưởng, và đặt dưới quyền Toà Khâm mạng do một vị Khâm mạng quyền hành như một Quốc Vụ Khanh trông coi.
Năm 1954: Ngô Đình Diệm yêu cầu Quốc Trưởng Bảo Đại huỷ bỏ Hoàng Triều Cương Thổ.
Năm 1955: Ngày 11-3, Quốc Trưởng Bảo Đại đã phê chuẩn dụ số 21, sát nhập các vùng cao nguyên vào lãnh thổ của quốc gia Việt Nam.
Năm 1962: Ngày 1- 9, chính quyền Sài Gòn lập tỉnh Phú Bổn, đặt tỉnh lỵ tại Cheoreo, mang tên mới là thị xã Hậu Bổn.
Năm 1975: 3 tỉnh Pleiku, Kontum và Phú Bổn (trừ huyện Thuần Mẫn) nhập thành tỉnh Gailai-Kontum.
Năm 1991: Tháng 10, KONTUM lấy lại vai trò cổ kính của nó trước kia: tái lập lại tỉnh KONTUM như xưa.
- Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (142 km).
- Phía Đông giáp tỉnh Quảng Ngãi (74km).
- Phía Tây giáp Lào, Campuchia (275 km).
- Phía Nam giáp tỉnh Gialai (203 km) [31].
Năm 1996: Tính đến cuối năm, Kontum [32]
*  Diện tích: 9661,71 km2
- Tx. Kontum: 424,2 km2
- SaThầy: 2.441,9 km2
- KonPlong: 2.248,2 km2.
- Đăk Hà: 843,6 km2.
- ĐakTô:1.377,4 km2.
- Ngọc Hồi: 823,9 km2 .
- Đăk Glei: 1.532,5 km2.
* Dân số: 290.001 người, gồm: Kinh: 138.560, dân tộc: 151.441 (J’rai: 14.779; Bahnar: 32.356; Sơđang: 70.518; các dân tộc khác: 33.788).
Đó là một số diễn biến lịch sử địa danh KONTUM theo khía cạnh hành chính qua nhiều chế độ. Nhưng dù trải qua “một cuộc bể dâu” như thế nào đi nữa, KONTUM vẫn giữ được giá trị trường tồn của nó: giá trị tinh thần và Kitô giáo.

II.  KONTUM – MỘT ĐỊA DANH MANG TÍNH DÂN TỘC VÀ  KITÔ GIÁO
1.  Giai đoạn 1888 -1908
KONTUM bị đùn bên này, đẩy bên kia, có lúc bị mất hút trong một vài vùng đất được khoanh tròn theo quan điểm chiến lược khác nhau. Nhưng Kontum luôn mang trong mình những yếu tố trường tồn: đó là tình người dân tộc và Kitô giáo. Không gì tốt hơn là chúng tôi xin ghi lại sau đây một số đoạn của linh mục thừa sai Guerlach trả lời cho Camille Paris, người đã bôi nhọ các vị thừa sai, trích trong “L’Oeuvre néfaste”, được trưng dẫn trên dưới một số vấn đề cụ thể sau đây:
a.  Về mặt  an ninh – xã hội
“Chẳng có gì hơn sự kiện tụ hợp một số lớn các buôn làng dưới cùng một thủ lãnh, đã tạo nên một tiến bộ quý giá đối với một tình trạng xã hội vô chính phủ trước đây”.
“Về mặt xã hội, các công việc nhân đạo và văn minh được nhận thấy rõ ràng qua sự ổn định – dù chậm – những chắc chắn cho toàn vùng, bằng cách dẹp được các vụ cướp bóc của một số người Jrai và chấm dứt cảnh đâm chém lẫn nhau giữa các buôn người Bahnar, nhờ các cuộc thương nghị công bình. Tôi đã nhiểu cần phải tốn hao tài lực để mưu cầu hoà bình, trả các khoảng tiền phạt cho bên gây chiến bất công, khi họ chao động vì tốn phí tiền của. Tôi cũng đã tổn hao tài chính để kết ước thảo thuận giữa các buôn làng với nhau”.
b. Về mặt  giáo dục
Cha viết tiếp:
“Cũng trong năm 1892, Cha Bề trên Vialleton từ Pháp trở về và tôi hài lòng trao lại cho người trách nhiệm Bề trên, sung sướng hết đảm nhận các trách vụ này. Cha Bề trên đẩy mạnh việc giáo dục cho người dân tộc, dạy họ tập đọc. Những người bản xứ không có chữ viết, các vị thừa sai cho họ một loại hình chữ viết bằng cách phát âm nhờ tiếng quốc ngữ. Khởi đầu thật khó khăn vất vả, nhưng Cha Bề trên Vialleton là con người kiên trì. Những cố gắng này mang nhiều thành quả tốt đẹp. Bây giờ có nhiều trường học trên vùng đất truyền giáo và kể như một chuyện lạ lùng là 3, 4 bà vợ trẻ đã học đọc, không muốn thua kém so với ông chồng mình (…)”.
c. Về việc bài trừ mê tín
“Trong lúc Cha Bề trên dạy cho các cư dân hương vị tiếng bản địa và bố trí cho họ một quyển sách tiếng Bahnar, thì tôi lại ra đi truyền giáo. Vì nghĩ đến lợi ích vật chất của người bản xứ, nên tôi quan tâm nhất là đến lợi ích thiêng liêng, đến huấn đạo luân lý và phần rỗi của họ. Khi làm như vậy, tôi ý thức phục vụ rất nhiều và lâu dài kể cả phương diện vật chất, bằng cách bài trừ các thực hành mê tín là những nguyên nhân làm cho họ tổn hại rất nhiều”.
Làm nổi bật khía cạnh phát triển, nghĩa là muốn nâng cao dân sinh là phải loại trừ mê tín dị đoan và đem phương thức canh tác có khoa học hơn.
“Các công nhân, viên chức, các nhà thám hiểm đến vùng Bahnar đã có thể nhận thấy tận mắt rằng người Công giáo cày ruộng bằng chiếc cày, cái bừa do các vị thừa sai đem vào phổ biến. Các nơi khác, dân bản địa dùng cái bới, cái cuốc sắt nhỏ làm rẫy, chọc trỉa. Có một bữa tôi hỏi người đứng đầu dân Gơlar tại sao họ không cày bừa vùng đất rộng được trận lụt định kỳ đem màu mỡ đến, nhờ vậy mùa gặt lúa mang lại kết quả thu hoạch tốt đẹp! Lúc đầu, ông tìm cách thối thoái, nhưng cuối cùng, ông thú nhận với tôi: “jang káp pơgra” (thần đòi hỏi chúng tôi nhiều qua). Ông ta giải thích cho tôi biết là có một người trước đây cũng bắt đầu cày ruộng với chiếc cày, nhưng Iang Glaih (Thần Sấm Sét) hiện ra với ông ta trong giấc mộng, đòi ông ta phải cúng thần mỗi năm một con trâu, nên ông ta không muốn dùng cày mà cày đất ruộng rẫy nữa. Vì không có gì để cúng theo yêu sách đó, và sợ mọi tai ương hoạn nạn và bị chết nếu không chấp hành. Người Gơlar không dám tiếp tục nữa. Vì thế, dùng cày bừa bị đình chỉ với người Sơđang trong các vùng này. Còn biết bao nhiêu mê tín dị đoan rầy rà hơn nữa”.
d. Y tế – bài trừ bệnh tật
Nạn dịch đậu mùa, bệnh tật hoành hành trong các buôn làng bản địa. Sự đóng góp và cố gắng chặn đứng những nạn dịch và bệnh tật như thế nào trong vùng Kontum? Chưa kể lần đầu tiên vào năm 1893[33], Cha Guerlach sau khi từ Huế về gặp cảnh đau thương dịch đậu mùa sát hại 86 người ở Kon Hara, 106 ở Rơhai. Nạn dịch lan rộng 5 nơi, cha vội xin thuốc ngừa, chủng ngừa, cũng như tìm phương thế đào tạo nhân sự để giải quyết phần nào các bệnh dịch đe doạ tiêu diệt cư dân. Cha Guerlach viết như sau:
“Sau khi miễn dịch được cư dân vùng Truyền giáo, tôi lên vùng Sơđang, khi một nhóm người Gơlar tới xin tôi đến miền của họ, vì bệnh truyền nhiễm đã hoành hành dữ dội”.
“Tôi đi ngay. Chúng tôi đang ở giữa mùa mưa như thác làm ngập cả vùng thung lũng; trong hai ngày, tôi đi dưới mưa gió, và các người dân tộc mang các đồ đạc đơn giản của tôi phải run rẩy vì lạnh buốt, vì sợ hãi, vì gió thổi rít quá mạnh. Khi tôi đến, một trong các chủ làng thốt lên: ‘Quả thật, các linh mục thừa sai có một trái tim quảng đại và can trường, phải công nhận cha đã thương chúng tôi quá sức để đến đây, mặc dù trời mưa gió bão táp; chúng tôi biết ơn các ngài’.
“Để tránh tai hoạ này, các người dân tộc phải phân tán vào các truông, những khoảnh đất hoang, do đó tôi phải vất vả cực nhọc đến với họ, luôn luôn đi dưới mưa gió và tôi chủng ngừa hơn 600 người trong vùng người Gơlar”.
“Hết 8 ngày, tôi phải chỉ dẫn cho dân địa phương cách thức chủng ngừa và tôi trở về miền của tôi, từ đó tôi lại lên vùng Sơđang cũng đang bị dịch đậu mùa hoành hành do các người Kon Krôh mang tới…”.
“(…) Để tự đề phòng, các người Sơđang đã đặt chung quanh làng những cây cột thành hình chữ thập, các cây chông bằng tre và các loại bẫy. Một chùm cây gay to tướng chắn lối ngoài cổng làng. Tôi chủng ngừa các dân cư trong 3 làng, rồi tôi lên vùng Kon Run, sau cùng tôi chủng mọi dân làng Hagou, mọi bộ tộc Kon Trong, Kon Jơry. Vì thế, tôi quá mệt mỏi nhưng bệnh truyền nhiễm bị chặn đứng, và cả vùng được an toàn. Tôi đã chủng hơn 7.000 người, một công việc đòi thời gian dài và mệt mỏi (…)”.
“Có cần nói đến các thứ thuốc men do chúng tôi cứu trợ cho hết mọi người, không phân biệt lương hay giáo chăng? Tiền để lập tủ thuốc hằng năm từ 4 lên tới 600 đồng phật lăng Pháp: vốn tiền chi dụng càng tăng lên, nhất là trong thời kỳ bị nạn dịch.
“Nhờ thuốc Hoàng Nam, chúng tôi đã cứu biết bao nhiêu người địa phương bị rắn cắn thường thì bị chết do nộc độc của nó”.
e.  Chặn đứng việc buôn bán nô lệ
Cha Guerlach khẳng định:
“Tôi làm trong khả năng của tôi để chặn đứng lộ trình buôn bán nô lệ, bằng cách chấm chỉ rõ ràng các người buôn bán nô lệ không được qua lại trên những con đường chúng tôi xây dựng. Các nô lệ bị người Sơđang bắt, trong trường hợp không bán được, thường là bị giết chết”.
“Trong thời kỳ đầu của nạn dịch đậu mùa, một vài người Sơđang giết nô lệ người kinh để cúng thần. Trẻ em bị cột chặt vào trụ như một con trâu và suốt đêm, người dân tộc múa nhảy chung quanh các vật tế thần này trong tiếng trầm bổng của chiêng trống. Người ta sẽ hiểu các nạn nhân bị căng thẳng chịu một cảnh tượng hấp hối trong một đêm rùng rợn não nề hãi hùng như thế nào! Khi mặt trời vừa ló rạng, trẻ em bị đâm bằng những nhát dao, sau đó mọi dân trong buôn làng lấy ngón tay thấm máu và bôi vào ngực mình. Thây ma thì đem đi chôn!”
“Tiếp đó, người ta giết trâu và cùng nhau ăn thịt sau khi dâng cho các yang phần đặc biệt”.
“Đấy còn là những điều rùng rợn mà tôn giáo phải khử trừ (…)”.
“Tôi có nên nói đến các mê tín dị đoan mà các vị thừa sai dần dần khử trừ trong các buôn làng tòng giáo không? Ví dụ: “deng” mà người Jrai gọi là “rơlung” (Ma lai). Đó là một sức mạnh ẩn khuất mà người nào đó có được sức mạnh đó, từ xa có thể giết và ăn được hồn của nạn nhân mình. Biết bao nhiêu người xấu số đã bị bắt giết chết ngay, cách thê thảm chỉ vì mê tín dị đoan “deng” này!”.
“Trong làng Công giáo không còn loại mê tín dị đoan này nữa”.
2.  Giai đoạn 1908-1933
Trong thời gian đầu, số linh mục ít, hoàn cảnh khó khăn, các vị thừa sai hết sức cố gắng để đem tinh thần Tin Mừng vào nếp sống, cơ cấu tổ chức xã hội cổ sơ là buôn làng của người dân tộc. Tuy nhiên, vào những giai đoạn sau (1908-1933), nghĩa là giai đoạn tổ chức chuẩn bị thành lập địa phận vào năm 1932, phương thức Phúc Âm hoá vùng dân tộc Tây Nguyên chuyển biến cách cụ thể và dài hơi, là xây dựng cơ sở, đào tạo nhân sự.
Ngoài các trường học tại họ đạo, một trường đào tạo lớp thầy giảng người dân tộc khởi công từ năm 1905, khánh thành ngày 7-1-1908, còn nhiều cơ sở y tế, xã hội khác… cùng đội  ngũ nhân lực thiện chí, khả năng, nhất là có lòng thương yêu và tôn trọng anh em dân tộc để phục vụ cho anh em dân tộc.
Vùng Truyền giáo Tây Nguyên vào năm 1932 hội đủ điều kiện để trở thành một vùng truyền giáo độc lập.
“Năm 1930, số giáo dân từ 18.000 lên 80.000 tín hữu, có 45 vị thừa sai ngoại quốc và gần 90 linh mục bản xứ thuộc địa  phận Qui Nhơn. Riêng Vùng Truyền giáo (Kontum) phát triển tốt đẹp về số lượng cũng như phẩm chất lòng đạo: 20.000 tín hữu, 14 linh mục thừa sai ngoại quốc, 11 linh mục Kinh và 3 linh mục người Bahnar. Đó là một vùng mà chẳng có gì giống với vùng truyền giáo Qui Nhơn: chủng tộc, khí hậu, ngôn ngữ, phong tục, thể chế chính trị, phương pháp truyền giáo… mọi cái đều khác”.
“Do tình trạng địa dư, nhân văn và tôn giáo của vùng, Toà Thánh thấy cần tạo lập một vùng truyền giáo độc lập. Ngày 11-1-1932, Toà Thánh chỉ định một địa phận gọi là Kontum độc lập, và ngày 15-1-1933, Cha Jannin, vị thừa sai ở vùng truyền giáo Kontum cho người dân bản địa từ 43 năm, được bổ nhiệm Giám mục Gadara và là vị Đại diện Tông toà đầu tiên trên vùng Tây Nguyên này”.
“Ngày 18 tháng 4 năm 1933, Cha Jannin xuống Qui Nhơn trình Tông thư bổ nhiệm cho Đức cha Tardieu, Giám quản Qui Nhơn và tuyên thệ theo giáo luật quy định cho các Tân Giám mục Giám quản Tông toà. Như vậy, ngài chính thức là vị Giám quản Tông toà một địa phận mới, và chính thức chia  thành 2 địa phận: Qui Nhơn và Kontum từ đó”[34].
“Địa phận Kontum gồm 4 tỉnh: Kontum, Pleiku, Ban-mê-thuột và Attopeu, bề rộng từ 150 km đến 200 km; dài : 450 km, diện tích 70.000 km2 và 700.000 dân cư”[35].
Địa danh KONTUM đã đi vào lịch sử của Giáo Hội hoàn vũ, là một trong các địa phận tại Việt Nam. Như vậy, từ năm 1932, địa danh KONTUM chính thức sử dụng trong Giáo Hội để chỉ vùng đất truyền giáo bao la và bao gồm một số đông đảo 700.000 cư dân Kinh cũng như  một số lớn các dân tộc trên vùng đất Tây Nguyên và Hạ Lào.

MỘT VÀI CẢM NGHĨ

KONTUM – nới rộng ra như một đất nước chẳng hạn: nó có thể thuần chủng hay gồm đa chủng tộc cùng quy tụ chống ngoại xâm, hoặc do lấn chiếm bằng vũ lực, hay thực dân bằng kinh tế, kể cả bằng chính trị và nhiều trường hợp bằng cộng sinh để tập hợp lại thành một đất nước thống nhất. Nhưng điều quan trọng là nhà cầm quyền biết theo chính sách “an dân” như Nguyễn Trãi, để quy hướng tất cả mọi người đồng tâm xây dựng thành một quê hương tươi đẹp, một đất nước hạnh phúc thật sự. Kontum phần nào theo quy luật như thế, nhưng còn bao hàm một số yếu tố khác về giá trị dân tộc và tôn giáo.
KONTUM từ một địa danh nhỏ bé đã trở nên một sức sống cho toàn vùng Truyền giáo Tây Nguyên và ảnh hưởng đến nếp sống của người dân, nhất là người dân tộc bản địa. Sự sống đó là tính dân tộc dần dần được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo. Nói cách khác, chính là Tin Mừng Chúa Kitô dần dần hội nhập và cải hoá toàn bộ cơ cấu tổ chức xã hội, nhất là tâm thức tôn giáo cổ sơ của họ.
KONTUM ví như  dòng sông Dak Bla bắt nguồn từ đỉnh núi cao phía bắc của tỉnh, bằng muôn vàn hạt nước li ti, dần kết tụ lại thành những con suối nhỏ, để rồi trở thành dòng sông lớn tưới mát và nuôi sống vùng đất thân thương, và từ thị xã Kontum, nó hướng dòng về phía tây, đem phù sa đến cho vùng này, cuối cùng đổ về miền Nam Việt Nam. KONTUM cũng bắt nguồn bằng hạt mưa của “Suối Nước Hằng Sống”, đi ngược dòng đời, tô điểm cho lòng người với Ơn Thánh Chúa, biến đổi xã hội để hướng con người lên Đỉnh Núi Cao của thế giới Thần Thiêng.
Người dân tộc KONTUM hiền hoà, cần cù lao động trên mảnh đất Tây Nguyên. Khung cảnh sống ngày nay trên vùng đất này đã biến đổi rất nhiều: đồng ruộng, nông trường xen lẫn với đồi trọc hay phần nào đã được phủ xanh; các buôn làng và thôn xã kinh tế mới, lấn dần rừng núi làm cho thú rừng phải di tản hoặc đi tìm thức ăn ở nơi khác. Điện đã được thắp sáng nhiều nơi, phương tiện nghe nhìn tăng dần; nhưng nhiều nơi lại bị ngập dưới lòng hồ Yaly, nên một số người dân ven sông Dak-Bla phải tìm các kế sinh nhai khác. Một điều đáng lưu ý là lòng đạo đức và tâm hồn chất phác nay cũng đã bị tha hoá nhiều do xu hướng hưởng thụ và nạn rượu chè nơi không ít người dân tộc. Trước mắt, nội lực của người dân tộc cần tăng cường để họ ý thức việc học tập và thăng tiến bản thân. Nhà nước cần đầu tư nhiều lĩnh vực như giáo dục, y tế, phát triển ngành nghề… Không có sức mạnh biến đổi nào hữu hiệu cho bằng chính bản thân người dân tộc phải ý thức vươn lên. Phúc Âm hoá vùng Tây Nguyên bước đầu phần nào đã giúp họ vượt thắng được các trì trệ trong việc phát huy tài năng cũng như kiến tạo một xã hội ngày càng công bình và tốt đẹp hơn theo như lòng Chúa mong muốn. Với “văn minh tình thương” của Kitô giáo và tinh thần “mọi người là anh em”, cùng Cha trên trời, họ được tôn trọng và đồng thời cũng biết tôn trọng người khác với tất cả trách nhiệm trong việc phục vụ bản thân, gia đình và xã hội.
Các Giám mục Giáo phận Kontum từ trước đến nay luôn chủ trương làm sao để giúp người tín hữu Tây Nguyên cùng sống đạo trong các mối quan hệ hỗ tương với một thái độ tôn trọng và phục vụ lẫn nhau. Các ngài không chủ trương Tây Nguyên phải đóng kín hoặc cấm chỉ người Kinh lên lập nghiệp tại đây, như  Léopold Sabatier, được mệnh danh là “cha già của người Rađê”, là “ông vua da trắng”[36] tại Ban-mê-thuột (tỉnh Daklak), đã chủ trương vào thập niên 20-30 của thế kỷ XX. Các ngài cũng phê phán việc di cư vô tổ chức làm phá huỷ sinh thái tự nhiên và khung cảnh sống thích hợp cho người dân tộc hoặc có thái độ khinh miệt họ. Các ngài đã đưa ra đường lối mục vụ chỉ đạo trong việc người Kinh định cư trên vùng Tây Nguyên, nhất là trách nhiệm người tín hữu như thế nào để loan báo Tin Mừng cũng như xây dựng nền văn minh tình thương và góp phần làm cho xã hội ngày càng phồn thịnh mà không đánh mất bản sắc dân tộc vùng Tây Nguyên. Định cư người Kinh trên vùng dân tộc Tây Nguyên là vấn đề gai góc, xã hội cũng như Giáo Hội đều quan tâm đặc biệt. Vấn đề này sẽ trình bày trong một chuyên đề khác khi hoàn cảnh cho phép[37].
Một vài con số thống kê
Số giáo dân có thể thống kê (vài nơi chưa đầy đủ) theo đơn vị hành chính trong toàn Giáo phận Kontum như sau:

SỐ GIÁO DÂN TỈNH KONTUM VÀ TRONG TỈNH GIALA
Năm 2001 (Xếp theo đơn vị hành chính huyện)


thong ke

Những vấn đề còn trước mắt

Vấn đề nhân sự
Hiện nay, có 70 linh mục, trong số đó có những linh mục trong diện hưu dưỡng hoặc đau bệnh, với hơn 3.000 giáo lý viên, trong đó có gần 1.500 giáo phu đang phục vụ cho anh em dân tộc của mình, và khoảng 350 tu sĩ đang phục vụ tại giáo phận. Số nhân sự tuy có dồi dào nhưng do địa bàn rộng, nhất là các linh mục phải kiêm nhiệm nhiều nơi, nên giáo phận đang cần có nhiều thợ gặt để phục vụ cho cánh đồng truyền giáo bao la này. Vì vậy mà vấn đề luôn được giáo phận đặt lên hàng đầu.

Gia đình
Không thể có ơn gọi linh mục, tu sĩ cũng như những con người phục vụ Giáo Hội nếu không có một gia đình đạo đức, có nền tảng đức tin sâu xa và tinh thần dấn thân mãnh liệt. Do đó, gia đình giữ vai trò quan trọng trong việc ươm mầm hạt giống ơn gọi tông đồ và linh mục tu sĩ.
Phục vụ là trách nhiệm của Giáo Hội, nhất là phục vụ cho người nghèo. Nhiều người trong giáo phận, nhất là người dân tộc và kinh tế mới, kể cả những người Kinh lâu nay vẫn đang sống trong tình trạng nghèo khó. Giáo phận luôn quan tâm và trăn trở, cố gắng tìm cho được một bền móng vững chắc để xây dựng một chương trình mục vụ phát triển có hiệu năng.
Nhưng vấn đề giáo dục lương tâm, và tấm lòng nhân ái, cũng như biết tôn trọng nhân phẩm con người nói chung và anh em dân tộc nói riêng là vấn đề cấp thiết hôm nay, nhất là trong một xã hội đang đề cao lối sống hưởng thụ và thực dụng. Xây dựng một nền văn minh tình thương là tiếng nói thúc đẩy giáo phận luôn thao thức để góp phần xây dựng một môi trường sống theo công lý, thấm nhuần tình yêu thương và tha thứ của Chúa, để hướng mọi người đến việc quý trọng và kiếm tìm những giá trị giúp ích cho đời sống tâm linh.
Miền đất KONTUM vẫn còn là một giáo phận mang đậm tính truyền giáo. Truyền giáo là vấn đề hội nhập văn hoá, tìm kiếm và trân trọng đón nhận những Hạt giống Tin Mừng trong các nền văn hoá địa phương, đồng thời thăng tiến và phát triển các mầm giống đó trong lòng tin sống động vào Thiên Chúa duy nhất, chân thật, và vào Đức Kitô, Người được Thiên Chúa sai đến để cứu độ trần gian bằng tình yêu hiến mình trên Thập giá. Đây là một lời mời gọi và cũng là một thách đố to lớn cho tất cả những con người đã và đang phục vụ trong cánh đồng truyền giáo KONTUM, một địa danh mang tính dân tộc và Kitô giáo vậy.
Lm. Gioakim NGUYỄN HOÀNG SƠN

—————————————–
[1]  Sách “Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Quý Đôn viết năm 1776, nói là từ năm 1471, khu vua Lê Thánh Tông đem  quân vào đất Chiêm Thành đã sắc phong cho nước Nam Bàn và nói rõ là ở đó có Vua Lửa (Ptao Pui – Hoả Xá) và Vua Nước (Ptao Ea – Thuỷ Xá) (x. Dân tộc học, số 3/ 1990, tr. 71-72).
[2]  x. Phạm Đình Khiêm, Người chứng thứ nhất, Sài Gòn 1959, tr. 37.
   Xem thêm: Quách Tấn, Non nước Bình Định,  Sài Gòn 1967, tr. 11-12.
[3]  x. Lam Giang, Hùng Khí Tây Sơn, cơ sở tạp chí Tây Sơn xuất bản, 1971, tr. 14.
[4]  x. Lam Giang, sđd, tr. 15.
[5]   Xem thêm Tạp chí Dân tộc học, số 3/1990, Viện Dân tộc học, Viện Khoa học Xã  hội Việt Nam, tr. 71:
“Trong một số thư tịch cũ nói về nước Đại Việt đã coi vùng lãnh thổ kể từ chân dãy núi Trường Sơn trở về phía Tây và Nam là nơi sinh sống của giống Sinh Man, Thục Man, có tên gọi là vùng Thượng Nguyên, Nam Bàn. Khi ranh giới của Đại Việt tiến đến chân đèo Cả thì toàn bộ phần đất phía nam gồm 3 vương quốc đều thuộc Chiêm Thành: Nam Bàn ở phía Bắc; Hoà An ở phía Đông, giáp biển; còn Chiêm Thành ở phía Nam”. (x. thêm Phạm Đình Khiêm, sđd, tr. 38).
[6]   x. Lam Giang, sđd, tr. 30; x. thêm Dân tộc học, tlđd, tr. 71.
[7]   x. Lam Giang, sđd, tr. 30-31.
[8]   x. Lam Giang, sđd, tr. 29.
[9]  Dương Quốc Anh, Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858-1945, tập II, Hà Nội 1988, tr. 243. Xem thêm Nghiêm Thẫm, Chứng chỉ dân tộc thiểu số miền Nam, (tài liệu do sinh viên chép, niên khoá 1973-1974,  tr. 89;
Xem thêm Jacques Dournes, Pơtao une théorie du pouvoir chez les Indochinois Jơrai, Flammarion, 1977, tr. 14-17. Trong tài liệu này, tác giả đã ghi một số nhà thám hiểm và buôn bán Tây phương nói đến những dân tộc ít người miền Tây Nguyên, tóm lược đại ý như sau:
+ Vào thế kỷ XVII, thừa sai người Ý tên là Christoforo Borri nói đến Kemoi. Ông Francois Timoléon de Choisy,  ghi nhận vào ngày 30-1-1686, nói đến vùng phía Tây có Ké-moi đã triều cống cho các vương Đàng Trong. Ông Marini Romain đến Đàng Ngoài có nghe nói đến Rumoi, Rợ-Moi…
  + Vào thế kỷ  XVIII, các bản đồ của người Tây phương có ghi giữa vương quốc Chàm và Campuchia có Kemoi. Danh xưng này kéo dài cho đến đầu thế kỷ XX, một số sách của người Pháp cũng có phiên âm kiểu Pháp các cư dân trên vùng núi Trường Sơn là “Mois”. Trong Đại Nam Thục Lục, tập I, tr. 172, Viện Sử học, Hà Nội 1962, có ghi vào năm 1711, vùng Nam Bàn và Trà Lai (Jrai) thuộc Hoả Quốc. Năm 1751, Thuỷ Xá và Hoả Xá triều cống cho triều đình. Mãi cho đến năm 1848, các vua này được phong phẩm tước, không  được coi như  “Mọi, Rợ”…    +  Xem thêm ghi chú số 5 ở trên.        
[10]  Những danh xưng “Mọi” được định nghĩa và hiểu như thế nào?
 - Pierre Pigneau de Béhaine – Bá Đa Lộc Bỉ Nhu, Tự vị Annam Latinh (Dictionarium Anamitico Latinum 1772-1777), NXB Trẻ, 1999, dịch và giới thiệu do Hồng Nhuệ và Nguyễn Khắc Xuyên, 1999, trong từ “Mọi” có nghĩa “Người man di ở ranh giới Đàng Trong”.
 - Theo Lm. Anthony Trần Văn Kiệm, Giúp đọc Nôm và Hán Việt, NXB Thuận Hoá, Huế 1999, trong từ “Mọi” được định nghĩa: “tiếng xưa gọi dân thiểu số Trung Việt”.
 Để hiểu rõ hơn, xin đối chiếu từ  “Man Di”.
 x. Bá Đa Lộc, sđd, từ Di, tr. 115: Di: rợ mọi, rừng rú, từ Man di: rợ mọi (sđd, tr. 283).
 x. Lm. Anthony Trần Văn Kiệm, sđd, tr. 611: Từ “Man” có nghĩa là “tên Nam Man (dân miền nam ngoài biên giới Trung Hoa”; từ “Di”: tên người Trung Hoa ngày xưa gọi các dân ở Tây Nam bên ngoài biên cương Trung Hoa: Man di”; “Tiếng xưa gọi người ngoại quốc”.
Theo như chúng tôi nghĩ: từ ngữ “Mọi” rất có thể nó biến đổi từ gốc “Man Di” và được phiên âm qua dấu hiệu viết của người Tây phương là các nhà thám hiểm, hoặc các nhà buôn Tây Ban Nha, Bồ Đào nha, Ý, Hà Lan, Pháp từ thế kỷ XVII, thành “Mo-ys, hay Mois, Kemoi”? Dù sao đi nữa, từ “Mọi” hoặc nó là một từ cổ hoặc nó biến hoá từ phiên âm đọc của người ngoại quốc để sau cùng viết thành từ “Mọi”, trong cả 2 trường hợp nó vẫn là một sinh ngữ và biến đổi ý nghĩa từ một danh từ trong não trạng của một nước lớn đối với dân tộc yếu kém nhiều mặt, nghĩa là chỉ những dân tộc sống ngoài đất nước Đại Việt có hàng ngàn năm văn hiến, có tổ chức (theo nghĩa tầm nguyên các từ: Man Di được Lm. Trần Văn Kiệm trình bày như chúng tôi đã trích dẫn trên). Đặc biệt là từ khi thực dân Pháp muốn chiếm chỗ trên Tây Nguyên đã khoét sâu xu hướng “kẻ cả” đó, gây chia rẽ, nên “danh từ “Mọi” càng mang tính miệt thị, cũng như từ “Kẻ-chợ”, “Yuan” cũng nằm trong diện biến đổi theo ý nghĩa bình thường qua ý nghĩa xấu. Bên cạnh đó, vào đầu thế kỷ XX, khi người miền xuôi đến buôn bán với anh em dân tộc trong dãy núi Trường Sơn, họ cũng thường gọi tên vùng đất, như lên Trà Cu (vùng Pleiku), đến Trà-Ngao (vùng Bahnar Kontum).
[11]  x. Lam Giang, sđd, tr. 33.
[12]  Quách Tấn, sđd, tr. 332 gọi dân tộc vùng An Khê là Bà Nà.
[13]  x. Jacques Dournes, sđd, tr. 2tt.
[14]  x. Nghiêm Thẫm, sđd, tr. 77-78 có ghi:
“Trong tờ trình đọc tại Viện Hàn Lâm Académie des inscriptions et belles lettres ở Pháp năm 1903, Adhémar Leclère trình bày có tìm được Hiến chương của Ngôi đền ở Samboc (Campuchia). Hiến chương này được làm vào năm 1601. Trong Hiến chương có nhiều vấn đề và có nói đưa tặng phẩm 3 năm một lần. Vị Thống đốc tỉnh Samboc  được uỷ nhiệm dâng các tặng phẩm cho 2 vị thủ lĩnh Jrai Hoả Xá và Thuỷ Xá”.
[15]  x. Nghiêm Thẫm, sđd, tr. 81-82.
[16]  x. Nghiêm Thẫm, sđd, tr. 82: “Từ năm 1470, dưới triều vua Lê Thánh Tôn đã lấy đất Chiêm Thành lập thành 3 nước: Chiêm Thành, Hoá Anh và Nam Bàn. Lãnh thổ của Thuỷ Xá và Hoả Xá thuộc nước Nam Bàn. Nam Bàn là cao nguyên Chiêm Thành khi xưa”. Xem thêm Tạp chí Dân tộc học, số 3/1990, tr. 71-72.
[17] x. Tài liệu Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện sơ tập, quyển 32, từ tờ 33 đến 46.
[18] x. “Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, Thiên Như Viễn”, quyển X và XIII; xem thêm Nghiêm Thẫm, sđd, tr. 10 (phần sau).
[19]  Đặng Nghiêm Vạn – Cầm Trọng…, Các dân tộc tỉnh Gialai-Kontum, Hà Nội 1987, tr. 41.
[20]  x. J. Kemlin, Tài liệu nghiên cứu “Alliances chez les Reungao”, BEFEO, tập X, số 3, tháng 7-9 năm 1910.
[21]  x. Hlabar Tơbang của giáo phận Kontum,  năm 1918, tr. 65-66; và năm 1917, tr. 45-48.
[22] J.B. Guerlach, L’ oeuvre néfaste, Sài Gòn 1906, tr. 27: “Huyện Hà Đông, phía nam Quảng Nam đã là các cuộc cướp bóc của dân tộc thường xuyên xảy ra. Một số đông người xấu số hoặc do các cha chuộc lại, hoặc do các người Kinh đã lập cư tại vùng dân tộc mua lại (…)”.
- Xem thêm Dourisboure, Les sauvages Bahnars, tr. 151-152.
[23]  Theo tài liệu viết tay trước 1975 của Phú (người Tân Hương), Rơhai vào năm 1873 có 542 người. Theo tài liệu “Phong Giám mục cho Đức cha Jannin, ngày 23-6-1933, tr. 12: số giáo dân năm 1870-1875 là 900 người tín hữu toàn vùng Truyền giáo Kontum.
[24]  Theo sổ rửa tội quyển I của họ Phương Nghĩa, ngày 30-3-1910, là người mang số 45. Xem thêm Echos de la Mission, của Vùng Truyền giáo Kontum, tháng 12-1947 và tháng 1-1948, tr. 7: Họ đạo Phương Nghĩa hình thành giữa năm 1870 và 1880. Từ đầu đến năm 1963, họ đạo Kontum Kơnam và Kontum Kơpơng là người dân tộc và Phương Nghĩa người Kinh thuộc chung một giáo xứ là Kontum. Đến năm 1963, giáo xứ Kontum mới tách thành 2 giáo xứ: một cho người dân tộc là KONTUM do linh mục thừa sai Deschamps phụ trách chính xứ, còn Giáo xứ Phương Nghĩa thuộc Cha Giuse Nguyễn Hữu Nghị chính xứ đảm trách.
[25]  x. Dourisboure, Les sauvages Bahnars, tr. 255.
Cha Do cắt cử thầy Thám, em của ngài, phụ trách khai khẩn nông trường Dak-Tum và sau đó, năm 1856, cha  Hoà từ vùng dân tộc Pnong (Dak-Lak) về Rơhai, làm phó Cha Do và phụ trách điều hành Dak-Tum (được đổi tên là KONTUM) cho đến năm 1861. Từ năm 1861 đến 1882, làng KONTUM không có linh mục trực tiếp coi sóc, trực thuộc Rơhai. Từ năm 1882-1909: Cha Vialeton Truyền làm chính xứ KONTUM. x. thêm Echos de la Mission, tháng 12-1947 và tháng 1-1948, tr. 7.
[26]  x. Echos de la Mission, ngày 15-8-1948.
[27]   x. JB. Guerlach, “L’Oeuvre néfaste”, Sài Gòn  1906, đề mục Cha Vialleton, Đại diện Quan Toàn quyền vùng Lào.
 [28]   x. Tài liệu về Phong chức Giám mục của Đức Cha Jannin, ngày 23-6-1933, lưu trữ tại Toà Giám mục Kontum, tr. 4-5.
 [29]  Hình thành tỉnh DAKLAK. Chúng tôi xin ghi lại đây việc hình thành tỉnh DakLak trong tài liệu của ông Dương Quốc Anh, “Việt Nam, những sự kiện lịch sử 1858-1948, tập III, 1919-1935, Hà Nội 1988, tr. 87, như sau:
“Ngày 2-7-1923, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định lập lại tỉnh DakLak, đặt tỉnh lỵ tại Buôn-mê-thuột.
Tỉnh DakLak vốn được thành lập theo NĐ ký ngày 21-11-1904; nằm trên địa bàn Tây các tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà, lấy tỉnh lỵ Buôn-mê-thuột.
“Ngày 9-2-1913, TQĐD ra NĐ sáp nhập Đắc-Lắc vào tỉnh Công Tum và trở thành một Đại Lý hành chính.
“NĐ ngày 2-7-1923 lập lại tỉnh Đắc-Lắc và tới NĐ của Khâm sứ Trung Kỳ ngày 5-6-1930, thì Buôn-mê-thuột trở thành thị xã. Các NĐ 11-12-1936 và 22-1-1940 xác định ranh giới giữa tỉnh Đắc-Lắc với các tỉnh Đồng Nai Thượng (Di-Linh) và Phú Yên”.
[30]  Dựa vào Địa Chí Gialai, Văn hoá Dân tộc 1999, tr. 44tt. 
     x. Đào Duy Quyền (chủ biên) Ngô Binh, “Văn hoá Truyền thống các dân tộc Kontum”, Kontum-Pleiku 11-1995, tr. 12.
x. Về GIALAI (Pleiku), Dương Quốc Anh, Việt Nam, những sự kiện lịch sử 1858-1948, tập III, 1919-1935, Hà Nội 1988, tr.  342, viết như sau:
 “Ngày 12 tháng mười hai 1932, Bảo Đại ra chỉ dụ thành lập đạo Gialai (Plâycu).
“Đạo Gialai (Plâycu) vốn là hạt Trà Cu thuộc tỉnh Công-Tum nay tách thành một đạo riêng có một  Quản Đạo, một Kinh Lịch và ba Thừa Phai cai quản. Chỉ dụ này dựa vào một NĐ của TQĐD ngày 24-5-1932 về việc thành lập tỉnh Plây Cu. NĐ này được bổ sung thêm một văn bản ký ngày 4-3-1933 theo đó thì một phần đất đai thuộc tỉnh Công Tum được tách ra, chủ yếu gồm Đại Lý Plây Cu (thành lập theo NĐ ngày 24-5-1925, trở thành thị xã theo NĐ 3-12-29). Đến NĐ ngày 9-8-1943 tách thêm Đại Lý An Khê của Công Tum nhập vào Plây Cu. Như vậy, tỉnh Plây Cu chia thành hai khu vực: khu người kinh là Đạo Gialai và khu người Giơrai gồm khu vực Pây Cu và Cheoreo”.
[31]  x. Đào Huy Quyền (chủ biên), Ngô Binh, Văn hoá Truyền thống các dân tộc Kontum, Kontum-Pleiku 11-1995, tr. 6.
[32]  x. Niêm giám Thống kê 1997 tỉnh Kontum, tr. 20-21.
[33]  x. Dourisboures, sđd, tr. 255.
[34]  x. Lễ Phong chức Giám mục Jannin, ngày 23-6-1933, tr. 16 (lưu trữ tại Toà Giám mục Kontum).
[35]  x. Lễ phong chức Giám mục Jannin, tr. 4-5.
[36]  x. Jacques Dorurnes , “Pơtao une théorie du puovoir chez les indochinois Jơrai”, Plammarion, 1977, tr. 73.
[37] Chúng tôi sẽ đề cập (khi có dịp) đường lối mục vụ của các Bề trên và Giám mục về sự kiện “di dân người Kinh lên vùng Tây Nguyên qua nhiều thời kỳ”. 
Xem thêm: Kemlin, “L’immigration annamite en pays moi”, imprimerie de Quinhơn, 1923. Có thể tham khảo các bài trình bày mục vụ của Cha Jannin, Cha Corompt và Cha Kemlin viết bằng Pháp ngữ vào thập niên 20-30 của thế kỷ XX, bản đánh máy về đề tài định cư người Việt Nam trên vùng Tây Nguyên, lưu trữ tại TGM Kontum. Và một số thư mục vụ khác của Đức cha Phaolô Seitz Kim vào thập niên 50 của thế kỷ XX.