Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

KONTUM - VẦN THƠ ĐẠO NGÀY ẤY...




Kontum – Vần thơ Đạo ngày ấy...

(Sưu tập thơ ca Giáo phận Kontum thập niên 1930)

Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2014

THEO MÙA XUÂN - Thơ: Minh Sơn.



Trước thềm năm mới, cùng với lời chúc xuân chân thành, xin chia sẻ cùng các bạn mấy vần thơ khai bút. Còn nhớ năm ngoái, đầu năm 2013, mình cũng đã cảm khái một bài: XUÂN ÂN TÌNH, cuối năm ngẫm lại thấy cũng ứng nghiệm nhiều điều! Năm nay chưa biết ra sao!? Mình cũng gởi tặng các bạn năm nay cầm tinh con Ngựa, nam cũng như nữ, lời chúc sức khỏe, an khang, thịnh vượng. Riêng mình có mấy cảm nghiệm sau, trong năm mới này.




Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

NGỰA TRONG KHOA HỌC và ĐỜI SỐNG



NGỰA TRONG KHOA HỌC và ĐỜI SỐNG
Nguyễn Quý Đại
Trong thập nhị chi, con giáp thứ 7 là con ngựa hay Ngọ chữ Hán Việt là Mã 馬. Tên khoa học: Equus caballus. Nếu ghép vào can chi thì có các năm: Giáp Ngọ, Bính Ngọ, Mậu Ngọ, Canh Ngọ và Nhâm Ngọ. Ngọ thuộc cực dương vì 12 giờ trưa là giờ Ngọ, tháng 6 là tháng Ngọ cây cối phát triển nhanh… Loài ngựa gắn bó với con người từ thời Thượng Cổ, con người bắt đầu thuần dưỡng ngựa vào khoảng 4000-4500 TCN. Khởi đầu ngựa hoang được thuần hóa ở miền nam nước Nga, nam Sibirien, các miền đông tây Á Châu và từ đó ngựa phổ biến trên khắp lục địa Á - Âu. Người ta thường nuôi ngựa làm phương tiện đi xa buôn bán với các bộ lạc khác nhanh chóng, thuận lợi hơn hoặc đi săn bắn xa và sau đó bắt đầu dùng ngựa tiến hành chiến tranh để cướp đất đai trong quy mô lớn.

Ngựa trong danh từ khoa học:

Giới (regnum): Animalia 

Ngành (phylum): Chordata

Lớp (class): Mammalia

Bộ (ordo): Perissodactyla

Họ (familia): Equidae

Chi (genus): Equus 

Loài (species): E. caballus 

Chủng tộc ngựa có bốn nhóm: thoroughbred/Vollblut (giống ngựa nầy ở Á Rãp và Anh Quốc); warmblood/Warmblut; draft horse/ Kaltblut; ponies /Ponys. Mỗi nhóm, chi có đời sống tập tính khác nhau như: Ngựa vằn núi Bergzebras (Epuus Zebra), ngựa Quagga (Epuus quagga), ngựa Onager (Epuus hemionus) thuộc loại nửa ngựa nửa lừa) ngựa Przewalskipferd (Epuus Przewalskii) ngựa Steppentarpan (Epuus przewalskii igmelini) ngựa Waldtarpan (Epuus Przewalskì silvaticus) ngựa Westpferd (Epuus przewalskii robustus); ngựa ở Phi Châu Wildesel (Epuus asinus africanus); ngựa ở bắc Phi Châu Wildesel (Epuus asinus atlanticus

Tùy thuộc vào giống môi trường, thức ăn, nước uống v.v, ngựa có tuổi thọ khoảng 25 đến 30 năm. Ngựa cái mang thai kéo dài khoảng 335-340 ngày. Ngựa con vừa lọt lòng mẹ có thể đứng và đi ngay. Ngựa bốn tuổi được coi là ngựa trưởng thành, mặc dù chúng tiếp tục phát triển bình thường cho đến sáu tuổi, thời gian hoàn thành sự phát triển của ngựa cũng phụ thuộc vào kích cỡ của ngựa, giống, giới tính.Có loại ngựa dài 2.80m cao 1,5m…..Ngựa ăn cỏ, dạ dày ngựa chỉ có một túi và không thuộc bộ nhai lại như trâu bò, răng ngựa tốt, ăn và nghiền nhỏ thức ăn, ngựa đực có 40 cái răng, ngựa cái chỉ có 36 cái. Uống nước mỗi ngày từ 30-60 lít nước. Tai ngựa rất thính, nhãn quan của ngựa rộng nhưng chỉ thấy rỏ về phía trước hơn, khuyết điểm không nhìn rõ hai bên, nên hay hoảng sợ khi nhìn thấy các di động hai bên, bởi vậy người ta dùng hai miếng da che hai bên mắt để ngựa kéo xe chỉ nhìn thấy phía trước. Ngựa có nhiều màu như lông màu trắng gọi là ngựa bạch, đen tuyền gọi là ngựa ô, đen pha đỏ tươi là ngựa vang, đen pha đỏ đậm là ngựa hồng, tím đỏ pha đen là ngựa tía, trắng sọc đen là ngựa vằn... Về cách đi đứng của ngựa có nhiều động từ để diễn tả như: đi, bước, rảo, chạy, nhảy, kiệu, phóng, vút, phi (bay), tế, sải, lao, vọt, phốc, phi nước đại, phi nước kiệu, phi rạp mình, ngựa lồng: ngựa chạy trung bình mỗi giờ từ 40-50 km, nhưng có thể chạy nhanh đến 90 km/ giờ. Người ta lấy sức ngựa (mã lực) làm tiêu chuẩn tính sức mạnh của động cơ Kilowatt (1 PS=75 mkp/S; hay 1 PS= 0,735498 KW).

Chân ngựa cũng có nhiều ngón, nhưng chỉ có một ngón giữa phát triển to ra, trên đầu ngón có một cái móng bằng chất sừng bao bọc ở mặt ngoài của móng ngựa, chất sừng rất dày cứng, nó gắn chặt với xương ngón chân, nhưng phần phía trong của móng là chất sừng mềm có tính đàn hồi co giãn được, nó có tác dụng làm giảm xung lực từ mặt đất khi ngựa bước đi. Vì móng ngựa là chất sừng cứng, khi ngựa đi lại trên đất, đá lâu ngày, lớp sừng bảo vệ bên ngoài sẽ bị mòn đến lớp sừng mềm bên trong. Ngựa bị đau chân không thể chạy nhảy kéo xe được Vì thế người ta đóng móng cho ngựa để bảo vệ cho móng không bị mòn. Có thợ chuyên môn rèn sắt đo ni lấy một cái vành bằng sắt có đục lỗ sẵn đóng móng cho ngựa, đã được sáng chế từ thời La Mã cổ đại. 

Ngựa trong chiến tranh được gọi là Ngựa chiến hay chiến mã.

Hình ảnh ngựa còn là chủ đề cho các môn nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, thơ văn... Đối với văn hóa phương Tây, ngựa gắn liền với nhiều biểu tượng thần thoại. Quan hệ giữa chủ nhân và ngựa không khác gì đôi bạn thân, cùng nhau vào sinh ra tử, xông pha trận mạc. Bên cạnh chiến binh, ngựa được coi là chiến mã, tượng trưng cho sự dũng mãnh, thần tốc và lòng kiêu hãnh, các binh chủng kỵ binh, kỵ mã, kỵ xạ, thám mã trong chiến đấu, săn bắn… Người Ai Cập và Trung Hoa cổ đại sử dụng xe ngựa kéo, sáng chế ra yên cương và bàn đạp giúp tăng hiệu quả chiến đấu của chiến mã và giúp cho người cưỡi giữ thăng bằng, ổn định và không bị ngã ngựa. Các hiệp sĩ trên lưng ngựa mặc áo giáp với một thanh kiếm hoặc giáo thương, đại đao hoặc các vũ khí đánh xa khác… có sức chống lại mạnh mẽ và gây nguy hiểm cho hầu hết các loại lính bộ binh. 

Việc sử dụng chiến thuật ổn định từ ngựa chiến được đóng yên cương và bàn đạp chân đã cho phép người Mông Cổ có thể tấn công và bắn tên hiệu quả từ trên lưng ngựa (nhất là các kỵ xạ), đồng thời đem đến cho họ sự linh động để chinh phục phần lớn các vùng đất đã biết đến trên thế giới. Thành Cát Tư Hãn/Genghis Khan phiên âm Hán: 成吉思汗 (trị vì 1206-1227) là người sáng lập ra Đế quốc Mông Cổ. Vó ngựa quân Mông Cổ tung hoành khắp nơi, nhờ giống ngựa Mông Cổ với vóc dáng có phần nhỏ hơn, chân ngắn hơn, bờm và đuôi rậm hơn, song chúng ít đòi hỏi chăm sóc, sức chịu đựng tốt, đặc biệt thích nghi tốt với khí hậu cận nhiệt đới. Quân Mông Cổ đã bành trướng xuống phía Nam, ngựa Mông Cổ có thể nói là phương tiện duy nhất để di chuyển đại quân từ Á sang Âu. Vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu thì cỏ không mọc được, đến đâu thì bình địa đến đó, máu chảy đầu rơi, xơ xác. Nhưng đến Việt Nam bị Hưng Đạo Vương đánh thua chạy dài về nước.

Theo truyền thuyết Đời Hùng Vương thứ Sáu nổi tiếng và đặc sắc nhất về ngựa là hình ảnh ngựa thần của Thánh Gióng, cậu bé làng Phù Đổng đã vươn vai thành người lớn cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt ra trận dẹp tan giặc Ân. Hình ảnh Thánh Gióng cưỡi ngựa thần bay lên trời tượng trưng cho sự tự do, bất khuất, lòng dũng cảm, ý chí kiên cường. Tại ngã sáu ở Sài Gòn còn tượng tưởng nhớ Phù Đổng Thiên Vương.

Ngựa thành Troia Hy Lạp Cổ đại: Người Hy Lạp sử dụng ngựa trong chiến trận. Lịch sử Hy Lạp cách đây hơn 3200 năm có chuyện ngựa gỗ thành Troia. Khi quân Hy Lạp đến bao vây thành Troie (Trojanische Krieg), dân thành này chống cự mãnh liệt, quân Hy Lạp không thể nào vô thành được. Theo mưu mẹo của Odysseus/ Odyssey chế ra một con ngựa gỗ rất cao lớn, bên trong rỗng ruột để quân lính chui vào nấp, sau đó giả vờ bỏ con ngựa lại chiến trường rồi ra lệnh tất cả thuyền bè rút ra khơi. Dân thành Troia thấy quân Hy Lạp rút lui, vui mừng kéo nhau ra khỏi thành hì hục đưa con ngựa gỗ vào bên trong thành như là một chiến lợi phẩm quý giá thu được từ Hy Lạp. Nửa đêm hôm ấy, quân mai phục từ bụng con ngựa chui ra chém giết lung tung, mở cửa thành cho quân Hy Lạp tràn vào. Thành Troia thất thủ, vua Priam bị giết, câu chuyện ngựa gỗ phá thành được chép lại như một thiên anh hùng ca trong các tiểu thuyết của nhà thi hào Homer.

Ngựa trong đời sống bình dân

Ngựa là gia súc đóng góp to lớn trong việc mưu sinh và sự phát triển của con người. ngựa đối với người phương Đông còn là biểu tượng của lòng trung thành, sự kiên trì, nhẫn nại và cần mẫn. Trong thời bình ngựa giúp chúng ta cày bừa, chuyên chở hàng hóa, kéo xe, chở người di chuyển trên đường xa, những nơi hiểm trở. Ngoài ra ngựa là phương tiện di chuyển nhanh nhất thời xưa trong vấn đề liên lạc thư tín, công văn …và tạo những niềm vui cho công chúng như đua ngựa, đi săn, cưỡi ngựa thi bắn tên, làm xiếc thú. Ngựa còn cho ta thịt để ăn và cúng tế, xương nấu cao ngựa làm thuốc, giúp các nhà y học chế ra các loại huyết thanh trị bệnh, huyết thanh chống nọc rắn. Viện Pasteur Nha Trang thành lập từ năm 1895, đến năm 1896 bác sĩ Yersin đã lên vùng Suối Dầu, thành lập một trang trại chăn nuôi ngựa lấy huyết thanh bào chế vacxin phòng chống bệnh dịch hạch. Và cũng từ trại ngựa này, Yersin đã sáng chế ra những loại huyết thanh cổ điển khác như kháng huyết thanh bạch hầu, uốn ván. Cho đến nay, với hơn 100 năm tồn tại và phát triển, trại chăn nuôi vùng Suối Dầu đã trở thành một trung tâm sản xuất vacxin lớn trong khu vực, với số lượng thú nuôi phục vụ nghiên cứu khoa học đứng đầu trong cả nước gồm ngựa, thỏ, chuột lang, chuột bạch.

Tiếp bước theo công trình của bác sĩ Yersin, tập thể các cán bộ ở trại chăn nuôi Suối Dầu đã bào chế ra những kháng huyết thanh mới từ ngựa như kháng huyết thanh trị rạ, trị nọc độc rắn cắn, mới đây nhất là nghiên cứu phát triển loại kháng huyết thanh chữa ngộ độc cá nóc cho ngư dân, theo tinh thần mà ngày xưa bác sĩ Yersin đã đề xướng: nghiên cứu và phục vụ đời sống.

Nhiều giống ngựa đã tuyệt chủng, nhưng nhiều giống ngựa khác được lai giống to lớn có lông mai và đuôi dài rất đẹp, hàng năm lễ hội Beer Tháng Mười ở Munich nhiều ngựa to lớn kéo xe rất đẹp 

Ngựa trong văn chương

Thời xa xưa đời sống hàng ngày chỉ sử dụng phương tiện di chuyển, kiệu, cán, xe kéo và ngựa. Ảnh hưởng đời sống nên truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du nhắc đến ngựa rất nhiều lần, hơn 24 câu nói đến ngựa. (1) 

Trong đoạn thơ tả cảnh chị em Thuý Kiều, Thuý Vân đi lễ hội Thanh minh:

Dập diều tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Tác phẩm thứ hai có nhắc đến ngựa là Chinh Phụ Ngâm. vài đoạn thơ liên quan đến ngựa. Nói về nam nhi trong thời chinh chiến:

Chí làm trai đặm nghìn da ngựa

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao

Giả nhà đeo bức chiến bào 

Thét roi cầu vị ào ào gió thu.

Rồi nàng phải tiễn chàng ra trận, cảnh chia ly thật buồn : 

Ngoài đầu cầu nước trong như lọc

Đường bên cầu cỏ mọc còn non

Đưa chàng lòng vợi vợi buồn

Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.

Ngựa liên quan trực tiếp đến người chinh phu ở nơi xa xăm, chịu dãi dầu sương gió, cùng những hiểm nguy của chiến trận, bên mình ngựa:

Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn

Giòng nước sâu ngựa nản chân bon.

Ôm yên, gối trống đã chồn

Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh

Hoặc:

Xông pha gió bãi trăng ngàn

Tên reo đầu ngựa giáo lan mặt thành.

Hay là: 

Chàng ruổi ngựa dậm trường mây phủ

Thiếp dạo hài lối cũ rêu xanh.

Tác phẩm Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu cũng có câu nói về ngựa:

Vân Tiên đầu đội kim khôi

Tay cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô.

Tác phẩm Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu cũng có nhắc xa mã:

Mùi phú quí nhữ làng xa mã

Bã vinh hoa lừa gã công khanh. 

Ngựa vốn là loài vật gắn bó với con người. Nó nằm trong Lục Súc Tranh Công, 6 loại gia súc nuôi trong nhà như: ngựa, trâu, bò, dê, chó và heo. Người Á Đông đã thuần hóa thành công 6 loại gia súc này trước tiên. Bởi vậy có truyện Lục Súc Tranh Công, ngựa cũng tự khen mình, vừa kể công đánh Nam dẹp Bắc, giúp không biết bao nhiêu tướng tài, phò trợ xã tắc suốt trong lịch sử: 

Ngựa nghe nói tím gan, tím phổi

Liền chạy ra hầm hí vang tai

Ớ này này tao bảo chúng bây

Đố mặt ai dài bằng mặt ngựa...

Tao đã từng đi quán về quê

Đã ghe trận, đánh Nam, dẹp Bắc...

Ngày ngày chầu chực sân rồng

Bữa bữa dựa kề loan giá.

Ông Cao Tổ năm năm thượng mã 

Mới dựng nên cơ nghiệp Lưu gia.

Ông Quan Công sáu ải vượt qua

Vì cậy có Thanh Long, Xích Thố...

Các chú được ăn no nằm ngủ

Bởi vì ta cầm cán giữ gìn...

Các chú những nằm trong xó bếp

Tài các người ở chốn quê mùa

Đừng đừng buông lời nói khật khù

Bớt bớt thói chê bai giớn giác … 

Trong tục ngữ ca dao

Được đầu voi đòi đầu ngựa: nói về người có lòng tham không đáy

Ngựa chạy có bầy chim bay có bạn: nói lên tinh thần đoàn kết.

Ngựa Hồ gió bấc hay chim Việt ngựa Hồ: Ngựa xứ Hồ mỗi khi gió bấc thì hí, chim nước Việt chọn cành phiá nam mà đậu.

Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ: Nói về tình đoàn kết 

Mã đáo thành công: Câu chúc may mắn, thành công 

Ngựa non háu đá: Chỉ những người trẻ tuổi thường có tính cách hung hăng, thiếu chín chắn 

Cưỡi ngựa xem hoa, chỉ thời gian ngắn đi qua chưa nhìn hết mọi vấn đề

Ngựa chứng là ngựa hay: nói những người có tài thường có những tật xấu 

Ngựa quen đường cũ: Chứng nào tật ấy 

Ngưu tầm ngưu mã tầm mã: Chỉ việc những người giống nhau thường tập hợp lại với nhay, tìm đến nhau 

Đầu trâu mặt ngựa: Câu này dùng để chỉ những kẻ vô loại, kẻ đại bất lương. 

Thẳng như ruột ngựa: Nói về việc không úp mở, thẳng thắn vào đề luôn 

Da ngựa bọc thây: Câu này thời xưa dùng để nói về một người lính đã ngã xuống trên chiến trường 

Đơn thương, độc mã (một ngựa với một cây thương): Chỉ người một mình chống lại khó khăn, không có sự trợ giúp của ai, giống câu một mình một ngựa 

Một lời nói ra bốn ngựa khó tìm (Nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy): Câu này có nghĩa là một lời nói vô ý khi ra khỏi miệng rất khó có thể lấy lại được. 

Tế ông mất ngựa: Chỉ trong cái rủi có cái may. 

Có mặt nào dài hơn ngựa, trước pháp đình, tội nhân đứng trước vành móng ngựa. …

Rồng chầu ngoài Huế, Ngựa tế Đồng Nai

Trong truyện thần thoại Tây Phương con ngựa cổ nhất là con độc giác là con bạch mã đuôi dài tha thướt như tóc một thiếu nữ, giữa trán mọc một cái sừng (Einhorn) và xoắn như mũi khoan phát ra ánh sáng, thêm con ngựa có cánh bay, các loại truyện thần thọai đã dựng thành phim hoạt hình. Những lăng mộ ở Ai Cập trên những bức phù điêu đều có chạm trổ hình những con ngựa, Tại Viện bảo tàng ở Cairo chưng bày những chiếc xe ngựa của các đời Vua được khai quật hơn 3000 năm. Trước sân các Đình Miếu ở Việt Nam cũng như Trung Hoa thường có tượng đá bằng ngựa…Về Âm nhạc có các nhạc phẩm được nhiều người thích là: Vết thù trên lưng ngựa hoang, Lý Ngựa Ô

Ở Trung Hoa, có dòng họ Mã lấy theo tên ngựa, trong đó có nhiều người nổi danh như Mã Viện, Mã Đằng, Mã Siêu, Mã Anh Cửu, Mã Giám Sinh, Mã Bé… Ngoài ra thêm nhiều chuyện như „trảm mã trà„ cho ngựa ăn trà chém đầu mổ bụng lấy trà sao chế để uống, hay chuyện cho ngựa bạch lên núi cao tìm cỏ Phương Chi mọc trên đá cho ngựa ăn lúc mặt trời vừa mọc, ăn xong cũng chém đầu mổ bụng lấy bao tử mang về chế thuốc phơi khô trị bệnh, bà Từ Hy Thái Hậu khoản đãi khách quý dùng loại thuốc đó nấu với Long Tu. 

Dược thảo mang tên ngựa

Trong các dược liệu cổ truyền, hai khái niệm ngựa và mã thường được sử dụng để chỉ tên nhiều vị thuốc có giá trị, thậm chí là tên của nhiều họ cây thuốc. Xin giới thiệu một số thảo dược chính có liên quan đến hai khái niệm này.

Mã tiên thảo hay còn gọi là cỏ roi ngựa (Verbena officinalis L.), họ cỏ roi ngựa (Verbenaceae), trông hình dáng giống như cái roi ngựa. Vị thuốc là bộ phận trên mặt đất, thu hái lúc cây sắp ra hoa, phơi khô hoặc sấy khô, với liều 6 - 12g dùng trị các bệnh sốt rét, lỵ, ngứa lở hạ bộ, sưng đau tuyến vú, mụn nhọt, bế kinh, khí hư bạch đới.

Mã kế còn gọi là đại kế (Circus japonicus (DC.) Maxim), họ Cúc (Asteraceae), dùng toàn cây. Vị thuốc có vị ngọt, đắng, tính mát. Trị thổ huyết, máu cam, trĩ ra máu, tiểu tiện ra máu, băng huyết, chấn thương chảy máu. Khi dùng để cầm máu thường được sao đen. Trị băng huyết và kinh nguyệt quá nhiều

Mã xỉ hiện còn gọi là rau sam (Portulaca oleracea L.), họ Rau sam (Portulacaceae), mọc hoang hoặc được trồng để làm thuốc hoặc làm rau ăn. Có thể dùng tươi hoặc khô để trị lỵ trực khuẩn, giun kim, dưới dạng nước sắc 15 - 20g ngày. Dùng ngoài, trị ngứa lở, nước ăn chân, lấy cây tươi rửa sạch, giã nát, chấm vào chỗ bị bệnh, ngày 1 - 2 lần sau khi đã rửa sạch chỗ bị bệnh và lau khô

Mã đề còn gọi là Xa tiền thảo (Plantago major L.), họ Mã đề (Plantaginaceae). Hai chữ mã đề là ám chỉ “móng chân của con ngựa”. Mã đề cho nhiều vị thuốc hay, toàn cây có tác dụng lợi tiểu, lợi mật, chống viêm loét, trừ đờm, chống ho, chống lỵ...Dùng trị bí tiểu, tiểu vàng, đỏ, tiểu ra máu, sỏi đường tiết niệu, viêm gan, mật...Từ mã đề có thể thu được các vị thuốc: bông mã đề, cụm hoa, hạt mã đề (xa tiền tử) có cùng tác dụng: lợi tiểu, lợi mật...

Mặt khác, xa tiền tử còn chứa nhiều chất nhầy, có khả năng bao phủ các vết loét, nhất là ở dạ dày, tá tràng. Do vậy, vị thuốc này cũng như tịch chiết lá tươi của nó được dùng để trị viêm loét dạ dày, tá tràng rất tốt

Mã đề nước còn gọi là Trạch tả (Plantago plantago- aquatica L. tên đồng danh Alisma orientalis Sam. Juzep.), họ Trạch tả (Alismataceae). Gọi là mã đề nước vì lá của cây trạch tả trông rất giống với lá của cây mã đề, song cây này lại mọc ở dưới ruộng nước. Y học cổ truyền dùng thân rễ của Trạch tả hàng năm thu hái vào khoảng tháng 4 - 5 để làm thuốc chữa bệnh phù thũng, viêm thận, viêm bể thận, tiểu tiện khó khăn, đái ra máu .

Cá ngựa hay hải mã là tên gọi chung của một chi động vật sống ở đại dương tại các vùng biển nhiệt đới. Cá ngựa có chiều dài 15 cm có loài dài đến 30 cm. Cá ngựa là cá biển thuộc chi Hippocampus và họ Syngnathidae vùng nước nhiệt đới và ôn đới ở khắp nơi trên thế giới. Đông y thường dùng hải mã khô trong những than thuốc nấu uống hay để ngâm rượu uống bổ dương. Khoa học chưa có tài liệu nào cho biết thành phần hóa học tác dụng dược lý?.. Cá ngựa và cá chìa vôi là 2 chi cá đặc biệt ở chỗ con đực "mang thai" và sinh con. Thời gian mang thai từ 2-3 tuần. Nó có vây ngực ở phía trên gần mang và vây lưng nằm phía dưới cơ thể. Một số loài cá ngựa có một phần thân thể trong suốt nên rất khó nhìn thấy.

Năm Quý Tỵ đã qua nhiều biến đổi, hy vọng năm Giáp Ngọ đến “mã đáo thành công“ sẽ đem lại Tự Do, Dân Chủ cho Việt Nam. Không còn bọn „đầu trâu mặt ngựa“ đàn áp đánh đập người dân biểu tình chống Trung cộng xâm chiếm biển đảo tịch thu ghe tàu, đánh đập ngư dân Việt Nam. Kính chúc thân hữu và quý độc giả năm mới bình an, thân tâm an lạc, may mắn và hạnh phúc .

Nguyễn Quý Đại

Tài liệu tham khảo

Tiere und Lebensräume (Das grosse Volks- Lexikom ) Bertelsmann.

Das neue Universal Lexikon 

Thơ văn hình trên Internet và trang Wikipedia


(Vietcatholic.net)

NĂM GIÁP NGỌ



NĂM GIÁP NGỌ
Trầm Thiên Thu
Giáp Ngọ (甲 午) là kết hợp thứ 31 trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Giáp(Mộc dương) và địa chi Ngọ (ngựa). Trong chu kỳ của lịch Trung Hoa, nó xuất hiện trước Ất Mùi và sau Quý Tỵ.

Giữa năm 1700 và 2200, những năm sau đây là năm Giáp Ngọ (lưu ý ngày đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng trước năm 1967): 1714, 1774, 1934, 1894, 1954 (3-2-1954, 24-1-1955) 2014 (31-1-2014, 19-2-2015) 2074 (27-1-2074, 15-2-2075), 2134, 2194,…

Có 10 Can, gọi là Thập Thiên Can, gồm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Và có 12 Chi, gọi là Thập Nhị Địa Chi, gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Đủ một chu kỳ theo Can và Chi là 60 năm. Ví dụ: Năm 2014 là năm Giáp Ngọ, năm 2074 cũng sẽ là năm Giáp Ngọ.

Thập Thiên Can và Thập Nhị Địa Chi được đặt ra là để tính thời gian và làm lịch. Cách tính khoảng thời gian thì có: Hội, Chuyển, Nguơn, Kỷ, Năm, Tháng, Ngày, Giờ. Người xưa căn cứ chu kỳ Mặt Trăng, nên gọi là Âm lịch (khác với Dương lịch, tính theo chu kỳ Mặt Trời) để làm lịch, đồng thời xác định các mùa và tiết trong năm. Thập Thiên Can và Thập Nhị Địa Chi được đặt ra từ thời Hiên Viên Huỳnh Đế. Vua Huỳnh Đế sai ông Đại Nhiễu tạo ra Thập Thiên Can và Thập Nhị Địa Chi để tính thời gian mà làm lịch cho dân dùng.

Trước thời vua Huỳnh Đế là vua Phục Hy tìm ra được Hà đồ, do quan sát các chấm đen trắng trên lưng con Long Mã xuất hiện ở sông Hoàng Hà mà lập thành. Nhờ đó, vua Phục Hy chế ra Tiên Thiên Bát Quái. Trên Hà đồ có tất cả 10 con số chia ra ứng theo Ngũ Hành. Do đó, người xưa dùng con số 10 để chế ra Thập Thiên Can.

Khoa Thiên văn thời xưa đã có thể nhận thấy Mặt Trời quay xung quanh Trái Đất giáp một chu kỳ gọi là 1 năm, Mặt Trăng quay chung quanh Trái Đất giáp một chu kỳ là một tháng. Một năm có 12 tháng, tức là một năm có 12 chu kỳ Mặt Trăng. Do đó, người xưa dùng số 12 chế ra Thập Nhị Địa Chi để gọi tên của 12 tháng.

Khi đã có Thập Thiên Can và Thập Nhị Địa Chi rồi thì người xưa cho phối hợp lại để tính năm, tháng, ngày, giờ. Sự phối hợp khởi đầu là: Giáp Tý (tức là lấy 2 chữ đầu của Can và Chi ghép lại). Cứ ghép tiếp sẽ có: Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão,…

Thiên văn thời cổ thường gắn liền với thần thánh. Tuy nhiên, người Trung Hoa đã khái quát cao hơn, khi gắn thiên văn với những tư tưởng mang tính triết học, mà Ngũ Hành là một minh chứng.

Tư tưởng cấu tạo vật chất của thế giới từ 5 yếu tố không phải là chỉ của riêng người Trung Hoa. Thần thoại Hy Lạp kể rằng thế giới được sinh ra từ Vực thẳm Khaox (Chaos – Hỗn mang, hồng hoang) thể hiện thành 5 nguyên lý: Đất Gaia, Tối Tăm Vĩnh Cửu Erèbe, Đêm Tối Nix, Địa Ngục Tartar, và Tình Yêu Erox. Triêt gia Aristoles cho rằng 5 nguyên tố cơ bản của thế giới là Nước, Lửa, Đất, Không khí, Ánh sáng,... Nhưng có lẽ không bộ 5 yếu tố nào lại có tính triết lý cao như Ngũ Hành của Trung Hoa: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Bộ 5 này được hình thành có lẽ từ 5 ngón tay của con người, cũng tựa như cơ số 10 trong hệ đếm.

Thuyết này xuất hiện từ đời nhà Tần (200 trước công nguyên), được củng cố phát triển trong thời Tây Hán. Lúc đầu 5 yếu tố là cấu tạo cụ thể, với các tính chất cụ thể:

KIM: kim loại, cứng rắn, lạnh, cương mãnh, bền chắc.
MỘC: gỗ, cây, sống, tăng trưởng, dẻo dai, chịu đựng.
THỦY: nước, mềm mại, nhu thuận, sâu hiểm.
HỎA: lửa, nóng, sáng, linh hoạt, sáng tạo.
THỔ: đất, đầy đặn, chịu đựng, nguồn của sinh sôi.

Nhưng rồi chúng được triết lý hóa, trở thành Ngũ Hành – 5 nguyên lý cơ bản của vật chất, gắn kết với mọi trạng thái triết lý từ vật chất đến tinh thần.

Hành Kim: màu Trắng phương Tây mùa thu Mũi, Phổi (Phế).
Hành Mộc: màu Xanh phương Đông mùa xuân Mắt, Gan (Can).
Hành Thủy: màu Đen phương Bắc mùa đông Tai, Thận.
Hành Hỏa: màu Đỏ phương Nam mùa hạ Lưỡi, Tim (Tâm).
Hành Thổ: màu Vàng phương Trung ương (không) Miệng, Tỳ.

Việc gắn phương hướng với các mùa và với Ngũ hành liên quan nhiều đến Thiên Văn. Người Trung hoa nhận thấy vào mùa Xuân thì đuôi của chòm sao Bắc Đẩu chỉ về phía Đông, mùa Thu chỉ về phía Tây, nên tương ứng mùa và phương. Như vậy chòm Bắc Đẩu thất tinh không phải chỉ là xác định phía Bắc, mà còn là sao chỉ phương và mùa trong văn hóa Trung Hoa.

Hai quy luật tương tác biến dịch quan trọng là tương sinh và tương khắc trở thành nền tư duy cho nhiều học thuyết (tuy nhiên sẽ không xét kỹ ở đây, mà chỉ đi vào khía cạnh Thiên văn).

Tương Sinh: Mộc sinh Hỏa - Hỏa sinh Thổ - Thổ sinh Kim - Kim sinh Thủy - Thủy sinh Mộc.
Tương Khắc: Mộc khắc Thổ - Thổ khắc Thủy - Thủy khắc Hỏa - Hỏa khắc Kim - Kim khắc Mộc.

Về sau tư tưởng Ngũ hành được gán cho rất nhiều ý nghĩa, đi rất xa với tư tưởng gốc ban đầu. Cứ bộ 5 nào cũng thành Ngũ hành hết, chẳng hạn lý thuyết: Cái sinh Ta, cái Khắc Ta, cái Ta sinh, cái Ta khắc,…

Dựa trên tư tưởng Ngũ hành, năm sắc độ sáng của các ngôi sao được phân chia (từ nguội đến nóng) là Đen – Đỏ - Vàng – Trắng – Xanh. Trên thực tế, các ngôi sao có màu sắc gần đúng như cách phân chia này:

Nhiệt độ bề mặt dưới 2.000 độ C, sao màu đỏ tối, chỉ phát bức xạ, gần như không nhìn thấy.

Nhiệt độ bề mặt 2.000-5.000 độ C, sao màu đỏ.
Nhiệt độ bề mặt 6.000-9.000 độ C, sao màu vàng.
Nhiệt độ bề mặt 10.000-15.000 độ C, sao màu trắng.
Nhiệt độ cao hơn nữa, hơn 20.000 độ C, màu xanh.

Mặt trời của chúng ta là ngôi sao trung bình màu vàng, nhiệt độ bề mặt khoảng 6500 độ, ứng với màu của hành Thổ. Trong Thiên Quan thư, Tư Mã Thiên viết: “Muốn xem sắc trắng của tinh tú, hãy nhìn sao Thiên Lang; muốn xem sắc đỏ, hãy nhìn sao Tâm, muốn xem sắc vàng, hãy nhìn sao Sâm Tả, xem sắc xanh hãy nhìn sao Sâm Hữu, sắc đen thì nhìn sao Khuê”.

Cách phân chia đó khá đúng về màu sắc: Sao Thiên Lang (sao Sirius – chòm Canis Major), là ngôi sao đôi sáng chói nhất bầu trời Sao Tâm hay sao Thương (sao Antares – chòm Scorpius) có quang phổ M0, màu đỏ rất rõ Sao bên phải sao sao Sâm (sao Rigel – chòm Orion), ngôi sao sáng thứ 7 bầu trời, quang phổ B2 màu xanh. Sao Khuê (sao D – chòm Andromeda) quang phổ M0 đỏ tối, trong con mắt Tư Mã Thiên là đen.

Sao Antares chòm Scorpius (sao Tâm Tú trong chòm Tâm, khu vực Thần Nông), ngôi sao có ánh sáng đỏ rực không kém gì Sao Hỏa. Sao Sirius trong Canis Major (sao Thiên Lang), ngôi sao có ánh trắng xanh, sáng nhất bầu trời. Tư Mã Thiên lấy ánh sáng này đại diện cho sắc trắng. Chòm Orion (tương ứng với Chủy và Sâm). Sao Betelgeuse phía trên bên trái, sau 2000 năm đã chuyển từ sắc vàng sang đỏ. Sao Rigel phía dưới bên phải tượng trưng cho sắc xanh.

Chỉ có Sao bên trái sao Sâm (sao Betelgeuse – chòm Orion), ngôi sao sáng thứ 10 trên bầu trời, và là một trong thiên thể lớn nhất bầu trời quan sát thấy, mà dưới thời Tư Mã Thiên là màu vàng, thì ngày nay là ngôi sao rất lớn màu đỏ. Nghĩa là sau 2000 năm, ngôi sao đó đã nguội đi. Đó là hiện tượng nguội sao duy nhất mà loài người quan sát được trong lịch sử.

Và người Trung Hoa dùng Ngũ hành để đặt tên cho các hành tinh mà họ quan sát được, theo thứ tự từ mặt trời ra ngoài là Thủy tinh, Kim tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, Thổ tinh. Chính các hành tinh này và chu kì chuyển động của chúng là cơ sở tạo nên hệ đếm Can Chi.

Can Chi chủ yếu dùng trong Lịch pháp, nhưng cũng có cơ sở từ quan sát Thiên Văn. Có lẽ do nằm ở vĩ độ cao, ngày Hạ chí mặt trời không thẳng đứng trên đỉnh đầu, cùng với việc canh tác nông nghiệp ít liên quan đến mặt trời hơn, nên Lịch pháp Trung hoa dựa vào Mặt trăng là chính. Việc dùng Can Chi tính ngày tháng đã xuất hiện vào cuối đời Thương (thế kỷ 12 trước công nguyên), việc gán tên con vật vào thì phải đến đầu công nguyên mới thực hiện.

Khi quan sát quĩ đạo các hành tinh, họ lấy Bắc thiên cực làm gốc, rồi dựa theo 8 cung Bát quái để xác định tọa độ. Sau rất nhiều năm quan sát và ghi chép lại, họ đưa ra các nhận xét của mình. Một số nhận xét về chu kỳ (trở về vị trí cũ trên bầu trời) của các Hành tinh như sau: Sao Thủy khoảng ¼ năm, sao Kim khoảng 0,6 năm, sao Hỏa khoảng 2 năm, sao Mộc khoảng 12 năm, sao Thổ khoảng 30 năm.

Các nhà làm lịch đã dùng 3 hành tinh là Hỏa, Mộc, Thổ làm chuẩn, bội số chung nhỏ nhất là 60, hay phải sau khoảng 60 năm, các hành tinh trên mới có được vị trí (tương đối với nhau) gần giống như cũ. Sao Hỏa sau 1 năm lại chuyển sang vị trí đối diện, rồi 1 năm sau lại về vị trí cũ, trở thành sao làm chuẩn cho chu kỳ 1 năm Âm, 1 năm Dương. Sao Mộc có chu kỳ 12 năm được lấy làm chuẩn để tính năm, nên gọi là Tuế Tinh. Sao Thổ lâu nhất, gọi là Thiên Can.

Sau khi kết hợp cả thuyết Ngũ hành và Âm Dương, thì con số 5 được chia 2, thành 10 Can, ứng với Ngũ hành, mỗi hành 1 Âm 1 Dương, còn 12 năm của Tuế Tinh thành Chi. Can Chi ra đời còn muộn hơn Ngũ hành, và càng muộn hơn thuyết Âm Dương, mãi khoảng đầu công nguyên mới có.

Can (cán – thân cây) gồm: Giáp – Ất – Bính – Đinh – Mậu – Kỷ - Canh – Tân – Nhâm – Quý.

Chi (cành cây) gồm: Tý – Sửu – Dần – Mão – Thìn – Tỵ – Ngọ - Mùi – Thân – Dậu – Tuất – Hợi.

Trong đó: Giáp + Ất là là hành Mộc, Bính + Đinh là Hỏa, Mậu + Kỷ là Thổ, Canh + Tân là Kim, Nhâm + Quý là Thủy, cứ 1 âm 1 dương đổi nhau.

Các từ chỉ Can và Chi đều là quá trình sinh trưởng và phát triển của cây cối:

1. Giáp: nẩy mầm.
2. Ất: nhú lên mặt đất.
3. Bính: đón ánh mặt trời.
4. Đinh: trưởng thành khỏe mạnh.
5. Mậu: rậm rạp.
6. Kỉ: dấu hiệu hoa trái.
7. Canh: thay đổi.
8. Tân: hoa quả mới.
9. Nhâm: thai nghén cho mùa sau.
10. Quý: mầm đang chuyển hóa.

12 Chi (Con Giáp), theo vòng từ Tý đến Hợi:

1. Tý: mầm hút nước.
2. Sửu: nẩy mầm trong đất.
3. Dần: đội đất lên.
4. Mão: rậm tốt.
5. Thìn: tăng trưởng.
6. Tỵ: phát triển.
7. Ngọ: sung mãn hoàn toàn.
8. Mùi: có quả chín.
9. Thân: thân thể bắt đầu suy.
10. Dậu: co lại.
11.Tuất: khô úa héo tàn.
12. Hợi: chết đi.

Như vậy nguyên thủy các chi không phải là các con vật như mọi người vẫn nghĩ. Đến khoảng đầu Công nguyên, người Trung Hoa gán các chi với các con vật. Nguồn gốc của việc gán con vật không hoàn toàn rõ ràng. Có thuyết cho rằng nó gắn với truyền thuyết Phật giáo, thứ tự của 12 con vật là những loài đã đến từ biệt khi Phật Thích ca nhập Niết Bàn, và mới gọi là các con giáp, lần lượt là:

Tý – Thử – Chuột, Sửu – Ngưu – Trâu, Dần – Hổ – Cọp, Mão – Thố – Thỏ (Việt Nam gọi là Mèo), Thìn – Long – Rồng, Tỵ – Xà – Rắn, Ngọ – Mã – Ngựa, Mùi – Dương – Dê, Thân – Hầu – Khỉ, Dậu – Kê – Gà, Tuất – Khuyển – Chó, Hợi – Trư – Lợn.

Chi Ngọ đứng ở vị trí giữa, trong lịch pháp ứng với thời điểm giữa trưa. Ngọ môn mang hàm nghĩa là Sung mãn, trọn vẹn. Tại sao lại là 12 con vật này với 12 cung giờ trong ngày, có thuyết gắn với thời điểm loài vật hoạt động mạnh nhất. Có nhận xét cũng thú vị dựa vào số móng của các con vật, cứ một chắn đi kèm với một lẻ.

Khi đó Can gọi là Hoa, Chi gọi là Giáp, nên Can Chi còn gọi là Hoa Giáp. Từ điểm bắt đầu là Giáp Tý cho đến hết vòng là Quý Hợi, chỉ có số chẵn đi với chẵn, lẻ đi với lẻ, nên không thể có Giáp Sửu hay Quý Tuất.

Trong thiên văn, khu vực của 12 cung còn ứng với 12 nước thời Xuân thu chiến quốc: Tề à Tý, Ngô à Sửu, Việt à Dần, Yên à Mão, Tống à Thìn, Trịnh à Tỵ, Sở à Ngọ, Chu à Mùi, Tần à Thân, Vệ à Dậu, Triệu à Tuất, Tấn à Hợi.

12 Chi có ý nghĩa rất quan trọng trong tính Lịch pháp (thực chất là Âm-dương lịch) và thời tiết. Trong 1 năm chia ra 12 tháng, có 24 ngày tiết khí, cứ 1 tháng 2 ngày.

Cùng với Ngũ hành, Can chi hay Hoa Giáp đã tạo thành một tư tưởng khép kín về chu kỳ vận động của Vũ trụ, với chu kỳ 60. Các thước đo thời gian đều được gắn với Can chi. Một ngày chia làm 12 giờ, một năm 12 tháng; 12 năm là một chu kỳ ngắn, 60 năm là một vòng “Lục thập Hoa giáp”, 3.600 năm là một chu kỳ lớn của Vũ trụ. Khi viết năm, họ chỉ dùng can chi, nên phải thêm triều đại cai trị tương ứng mới đủ. Không chỉ thế, phương vị trên bầu trời cũng được chia ra 12 cung, khi xác định vị trí ngôi sao thì nói nó nằm trong cung nào.

Chi Ngọ đứng ở vị trí giữa, trong lịch pháp ứng với thời điểm giữa trưa. Ngọ môn hàm nghĩa là Sung mãn, trọn vẹn. Tại sao lại là 12 con vật này với 12 cung giờ trong ngày, có thuyết gắn với thời điểm loài vật hoạt động mạnh nhất. Có nhận xét cũng thú vị dựa vào số móng của các con vật, cứ một chắn đi kèm với một lẻ.

…VÀ CHUYỆN NGỰA

Có nhiều loại ngựa, dù theo nghĩa đen hoặc nghĩa bóng: Ngựa trắng (Bạch mã), Ngựa đen (Ngựa ô), Ngựa vằn, Ngựa hoang, Ngựa sắt, Ngựa giấy, Ngựa chứng, Ngựa bất kham,…

1. NGỰA SẮT. Thánh Gióng, tức là Phù Đổng Thiên Vương (扶 董 天 王) hoặc Xung Thiên Thần Vương (冲 天 神 王), là một trong bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, gọi là Tứ Bất Tử. Thánh Gióng có công dẹp giặc Ân, đem lại thái bình cho đất nước.

Truyền thuyết kể: Ông sinh ra tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, thời Hùng Vương thứ 6. Ông là “người trời” đầu thai làm đứa trẻ đã lên ba mà không biết nói cười, đi đứng. Nhưng khi có giặc tràn xuống thì “người trời” cất tiếng gọi mẹ nhờ ra gọi sứ giả của nhà vua, rồi bỗng chốc vươn vai thành một thanh niên cường tráng cưỡi NGỰA SẮT đi đánh giặc. Sau khi đánh tan giặc Ân, ông bay thẳng về trời. Nơi đó chính là núi Sóc – thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.

Sử sách ghi: “... Diệt quốc cừu, điện quốc cơ, trùng tiêu quốc xí, đương ư sóc phong liệt tướng, thành sở vị: giang nam nhất nhân, giang bắc nhất nhân”. Dịch nghĩa: “... Diệt giặc nước, xây móng nền, dựng cờ tổ quốc, cùng trang liệt tiếng Sóc Sơn, thành truyền thuyết: phía Nam sông Tướng giỏi, phía Bắc sông Người tài” (tức là phía Nam sông Cầu có tướng giỏi là Thánh Gióng, phía Bắc sông Cầu có người tài là Hùng Linh Công).

Theo truyện kể của học giả Nguyễn Đổng Chi, vào thời Hùng Vương có một người đàn bà đã nhiều tuổi nhưng sống một thân một mình. Một hôm sáng dậy bà đi thăm nương, bỗng nhìn thấy một vết chân giẫm nát cả mấy luống cà. Bà kinh ngạc kêu lên: “Ôi, bàn chân ai mà to thế này!”.

Bỗng bà cảm thấy rùng mình khi đưa bàn chân ướm thử vào dấu chân lạ. Từ đó bà có mang. Đủ ngày tháng, bà sinh được một đứa con trai bụ bẫm đặt tên là Gióng. Nhưng thằng bé lên ba tuổi rồi mà vẫn nằm ngửa đòi ăn, không biết ngồi biết lẫy, cũng không biết nói biết cười gì cả.

Ngày ấy có giặc Ân kéo vào cướp nước ta. Giặc Ân rất hung hăng tàn ác, cầm đầu là một viên tướng tên gọi Ân vương, hình dung cổ quái dữ tợn. Chúng nó đi đến đâu là đốt phá nhà cửa, giết người cướp của đến đấy. Quân đội Hùng Vương nhiều phen xuất trận, nhưng đánh không nổi. Vua Hùng lấy làm lo lắng vội phái sứ giả đi khắp nơi trong nước tìm bậc tướng tài để giúp vua cứu nước.

Một hôm sứ giả đi đến làng chú bé Gióng. Nghe tiếng loa rao nói đến việc nhà vua cầu người tài, bà mẹ Gióng đang ru con, liền bảo đùa con: “Con ơi! Con của mẹ chậm đi chậm nói làm vậy, thì biết bao giờ mới đi đánh giặc giúp vua được đây!”. Không ngờ Gióng nhìn mẹ mở miệng bật lên thành tiếng: “Mẹ cho gọi sứ giả vào đây cho con!”.

Nói xong lại im bặt. Bà mẹ vừa mừng vừa sợ, vội đi kể chuyện với xóm giềng. Mọi người đổ tới, ai nấy cho là một sự lạ. Sau cùng, một người nói: “Ta cứ đi mời sứ giả đến xem thử nó muốn cái gì”.

Khi sứ giả của nhà vua bước vào nhà nhìn thấy chú bé Gióng thì hỏi: “Mày là đứa trẻ lên ba mới học nói, mày định mời ta đến để làm gì?”. Gióng trả lời rất chững chạc: “Về bảo với vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một thanh gươm sắt, một giáp sắt và một nón sắt, ta sẽ đánh đuổi giặc dữ cho!”.

Ai nấy đứng nghe khôn xiết lạ lùng. Cho là thần nhân xuất hiện, sứ giả lập tức phi ngựa về tâu vua. Nghe nói, Hùng Vương mừng rỡ liền ra lệnh cho thợ rèn góp tất cả sắt lại rèn ngựa, gươm, áo giáp và nón như lời xin của chú bé. Mọi thứ rèn xong nặng không thể tưởng tượng nổi. Hàng chục người mó vào thanh gươm mà không nhúc nhích. Vua Hùng phải cho hàng ngàn quân sĩ tìm mọi cách chở đến cho chú bé Gióng.

Khi được tin quân sĩ khiêng ngựa sắt sắp đến làng, mẹ Gióng sợ hãi chạy về bảo con: “Con ơi! Việc nhà vua đâu phải là chuyện chơi. Hiện quân sĩ đang kéo đến ầm ầm ngoài bãi, biết làm thế nào bây giờ?”. Nghe nói thế, Gióng vụt ngồi dậy, nói to: “Việc đánh giặc thì mẹ đừng lo. Nhưng mẹ phải cho con ăn thật nhiều mới được!”.

Mẹ vội thổi cơm cho con ăn, nhưng nấu lên được nồi nào Gióng ngốn hết ngay nồi ấy. Mỗi lần ăn một nồi cơm thì Gióng lại lớn thêm một ít và đòi ăn thêm. Mẹ càng cho con ăn thì con lại càng lớn như thổi, bỗng chốc đã thành một chàng thanh niên khỏe mạnh. Hết gạo, bà mẹ đi kêu gọi xóm làng. Mọi người nô nức đem gạo khoai, trâu rượu, hoa quả, bánh trái đến đầy một sân. Nhưng đưa đến bao nhiêu, Gióng ăn hết bấy nhiêu mà vẫn đòi ăn không nghỉ. Sau đó, Gióng lại bảo: “Mẹ kiếm vải cho con mặc”.

Người ta lại đua nhau mang vải lụa tới may áo quần cho Gióng mặc. Nhưng thân thể Gióng lớn vượt một cách kỳ lạ, áo quần vừa may xong đã thấy chật, thấy ngắn, lại phải mang vải lụa tới để chắp nối thêm. Không mấy chốc đầu Gióng đã chạm nóc nhà. Ai nấy chưa hết kinh ngạc thì vừa lúc quân sĩ đã hì hục khiêng được ngựa, gươm, áo giáp và nón sắt tới. Gióng bước ra khỏi nhà vươn vai một cái, người bỗng cao to sừng sững, chân dài hơn trượng, hét lên một tiếng như tiếng sấm: “Ta là tướng nhà Trời!”.

Thế rồi Gióng mặc giáp sắt, đội nón sắt, tay cầm gươm múa quanh mấy vòng, từ biệt mẹ và dân làng, rồi nhảy lên lưng NGỰA SẮT. Ngựa sắt chồm lên, phun thẳng ra trước một luồng lửa đỏ rực. Gióng thúc chân, ngựa phi như bay, sải từng bước dài hàng chục con sào, rung chuyển cả trời đất. Chỉ trong chớp mắt, ngựa đã xông đến đồn trại giặc bấy giờ đang đóng la liệt cả mấy khu rừng. Lưỡi gươm của Gióng vung lên loang loáng như chớp giật. Quân giặc xông ra chừng nào chết chừng ấy. Ngựa thét ra lửa thiêu cháy từng dãy đồn trại, lửa thiêu luôn cả mấy khu rừng. Khói bụi mịt mù, tiếng la hét kêu khóc như ri.

Nhưng tướng giặc Ân vương vẫn cố gào thét hô quân xáp tới, Gióng càng đánh càng khỏe, thây giặc nằm ngổn ngang đầy rừng. Bỗng chốc gươm gãy. Không bối rối, Gióng thuận tay nhổ những bụi tre hai bên đường quật tới tấp vào các toán giặc đang cố gắng trụ lại theo lệnh chủ tướng. Chẳng mấy chốc quân giặc đã tẩu tán khắp nơi, Ân vương bị quật chết tan xác. Bọn tàn binh giặc lạy lục xin hàng. Quân đội của Hùng Vương cũng như dân các làng chỉ còn việc xông ra trói nghiến chúng lại. Không đầy một buổi, Gióng đã trừ xong nạn nước. Lúc bấy giờ ngựa Gióng đã tiến đến chân núi Sóc Sơn. Đến đây, Gióng bèn cởi giáp bỏ nón lại, rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời...

Sau đó, để nhớ ơn người anh hùng, vua Hùng sai lập đền thờ ở làng quê, phong làm Phù Đổng Thiên Vương, tường gọi là Thánh Gióng.

Ngày nay chúng ta còn thấy dấu vết những dãy ao tròn nối nhau kéo dài suốt từ Kim Anh, Đa Phúc cho đến Sóc Sơn, người ta bảo đó là những vết chân ngựa của Thánh Gióng. Khu rừng bị ngựa sắt phun lửa thiêu cháy nay còn mang cái tên là làng Cháy. Những cây tre mà Gióng nhổ quật vào giặc bị lửa đốt màu xanh ngả thành màu vàng và có những vết cháy lốm đốm, ngày nay giống ấy vẫn còn, người ta gọi là tre ngà (đằng ngà).

2. NGỰA TRẮNG. Đó là Bạch Long Mã của Đường Tam Tạng (Trần Huyền Trang). Bạch Long Mã vốn là “rồng trắng hóa thành ngựa”. Đường Tam Tạng là vị sư chân tu phụng mệnh Quan Âm Bồ Tát và Đường Thái Tông đi từ Ấn Độ đến Thiên Trúc thỉnh bộ Đại Thừa Phật Pháp Tam Tạng chân kinh về Đại Đường để phổ độ chúng sinh.

Truyện này của tác giả Ngô Thừa Ân, đã được dựng thành bộ phim nhiều tập “Tây Du Ký”. Cùng đi với Tam Tạng có Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Ngộ Tịnh và Bạch Long Mã (một hoàng tử của Long Vương).

3. NGỰA XÍCH THỐ. Đó là một con ngựa nổi tiếng trong Tam Quốc Chí. Ngựa Xích Thố ban đầu của Đổng Trác, sau đó Đổng Trác tặng lại cho Lã Bố.

Con ngựa này dài một trượng, cao tám thước, màu đỏ rực như lửa, tuyệt không có một sợi lông tạp, ngày đi ngàn dặm, trèo non vượt suối dễ dàng.

Lúc Lã Bố chết, nó được Tào Tháo cho người chăm sóc, sau trao lại cho Quan Công (Quan Vũ). Quan Vũ cưỡi ngựa Xích Thố qua năm cửa ải chém sáu tướng. Khi Quan Công mất thì nó cũng mất theo ông, người đời có một bài thơ để lại như sau:

Ngàn dặm mù bay tịt nẻo xa
Trèo non vượt nước khéo xông pha
Chặt đứt dây cương rung chuông ngọc
Rồng đỏ trên trời hẳn mới sa

Trong truyện Tam Quốc Chí cũng có 2 câu đối nhắc tới Ngựa Xích Thố: “Xích bỉnh diện xích tâm, kỵ Xích Thố truy phong, trì khu thời vô vong Xích Đế Thanh đăng quan thanh sử, trượng thanh long yển nguyệt, ẩn vi sứ bất quý thanh thiên”. Bản dịch của Phan Kế Bính: “Bộ mặt đỏ giữ tấm lòng đỏ, cưỡi ngựa Xích Thố truy phong, lúc ruổi rong không quên nhớ Vua Đỏ, Ngọn đèn xanh xem bộ sử xanh, cầm Thanh long đao yển nguyệt, nơi kín đáo chẳng thẹn với trời xanh”.

Ngựa Xích Thố được xem như một trong những Thần Mã của lịch sử Trung Quốc, những thần mã quý khác như Ngựa Đích Lư (Đích Lô) của Lưu Bị, Ngựa Tuyệt Ảnh của Chu Mục Vương, Ngựa Bạch Long của Triệu Vân,… đều có nguồn gốc khác nhau.

Khi Tào Tháo tặng Ngựa Xích Thố cho Quan Vũ, Quan Vũ nhận ngựa xong liền phục lạy tạ ơn. Tào Tháo đã phải ngạc nhiên nói: “Ta đã bao phen trao tặng nào là mỹ nữ, nào là vàng bạc, nào là gấm vóc, sao chẳng thấy Vân Trường vui, nay cho con ngựa này mà Vân Trường lại tạ ơn hậu như vậy?”.

Nếu Ngựa Xích Thố nổi danh có nghĩa với chủ, thì cũng trong Tam Quốc Chí, Ngựa Đích Lư lại nổi danh uy dũng không thể chê được.

4. NGỰA ĐÍCH LƯ. Khi Lưu Huyền Đức thất thế, đến Kinh Châu nương nhờ anh họ là Lưu Biểu, có dắt theo ngựa Đích Lư. Thấy Lưu Biểu có ý thích ngựa, Huyền Đức đem tặng ngay. Lưu Biểu cảm kích nhận ngựa, nhưng hôm sau lại đem trả cho Huyền Đức, vì nghe một người giỏi xem tướng ngựa bảo: “Con Đích Lư dưới mắt có chỗ trũng, cạnh trán lại có điểm trắng, vậy là con vật hại chủ”.

Hôm sau, Huyền Đức từ biệt Lưu Biểu, vừa ra khỏi thành thì gặp và nghe Y Tịch nói: “Nghe nói Lưu Biểu trả lại ông ngựa này vì cưỡi thì hại chủ. Vậy ông còn cưỡi làm gì?”. Huyền Đức đáp: “Người ta sống chết có mệnh, con ngựa hại thế nào được!”. Một hôm, Sái Mạo (em vợ sau của Lưu Biểu) rắp tâm hãm hại Huyền Đức vì Huyền Đức đã dám can ngăn Lưu Biểu đừng bỏ trưởng lập thứ. Người con thứ của Lưu Biểu lại là cháu gọi Sái Mạo bằng cậu.

Huyền Đức hay tin liền phóng lên Ngựa Đích Lư bỏ trốn. Khi đi đến Suối Đàn Khê, rộng độ vài trượng, nước chảy xiết, Huyền Đức gò ngựa trở lại. Nhưng thấy quân của Sái Mạo đã đến, không còn cách nào hơn, Huyền Đức lại quất ngựa xuống suối. Đi được vài bước, ngựa ngã quỵ hai chân trước, làm ướt hết cả áo bào. Huyền Đức vung roi hô lớn: “Đích Lư! Đích Lư! Nay mi hại ta rồi!”. Nói vừa dứt lời, Huyền Đức bỗng thấy Đích Lư rướn mình nhảy vọt cao ba trượng sang tới bờ bên kia. Trên cả tuyệt vời!

Sái Mạo nhìn thấy cảnh đó, quay lui bảo với tả hữu: “Người ấy có Thần nào giúp vậy? Thật là một con ngựa uy dũng!”. Chuyện đời có nhiều điều bất ngờ mà đâu ai biết được!

VĨ NGÔN - NGỰA cũng có nhiều “phong cách” khiến chúng ta phải học hỏi để rút kinh nghiệm. Mong sao trong suốt cuộc đời, nhất là trong Giáp Ngọ này, mỗi chúng ta đều là Ngựa Quý, Ngựa Hiếm, Ngựa Tốt, Ngựa Trung Thành, Ngựa Uy Dũng,… chứ không là Ngựa Hoang, Ngựa Chứng, Ngựa Giấy,…


(Vietcatholic.net)