Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2020

Cha Tổng Đại Diện Là Ai?


Xưa nay, các thành phần Dân Chúa thường gọi Cha Tổng Đại diện cách kính cẩn là Cha Bề Trên hay Cha Chính Địa phận. Ai cũng quý mến và kính trọng Cha Tổng Đại diện, nhưng một số vấn đề liên quan đến ngài, đại thể như Cha Tổng Đại Diện là ai, có vai trò như thế nào, quyền hạn ra sao và ai có thể được đặt lên giữ chức ấy… thì không mấy giáo dân nắm rõ. Với sự thuận tiện nhờ mạng lưới điện toán, những vấn đề như thế nên được trình bày, ít là cơ bản, để anh chị em giáo dân hiểu thêm hầu yêu mến và cộng tác với Cha Tổng Đại diện cách đắc lực hơn. Bài viết này có ý hướng như thế.
 1. Cha Tổng Đại diện là ai?

Trong một giáo phận của Giáo Hội Công Giáo, Cha Tổng Đại diện là một Linh mục được Giám mục giáo phận tuyển chọn và bổ nhiệm, để cộng tác với ngài trong việc điều hành giáo phận. Tổng Đại diện cũng có thể là Giám mục phó hay phụ tá.

Giáo luật quy định mỗi giáo phận phải có một Tổng Đại diện. Trong trường hợp giáo phận quá rộng lớn, đông giáo dân hay vì lý do mục vụ đặc biệt, Giám mục giáo phận có thể bổ nhiệm hơn một Tổng Đại diện (đ. 475).
Một khi Tổng Đại diện đã được bổ nhiệm, các danh hiệu như Niên trưởng hay Linh mục trưởng… tự động biến mất. Trong mọi sinh hoạt của giáo phận, các danh hiệu này không thể duy trì. Niên trưởng không phải là một giáo vụ.
Thông thường, Tổng Đại diện được bổ nhiệm vô thời hạn. Nhưng với thẩm quyền và sự khôn ngoan của ngài, Giám mục giáo phận có thể đưa ra hạn định về thời gian cho Tổng Đại diện. Ngài có toàn quyền để tái bổ nhiệm.
Giám mục giáo phận hoàn toàn tự do và không cần phải tham khảo ý kiến ai khi ngài bổ nhiệm Tổng Đại diện. Ngài cũng có quyền cách chức Tổng Đại diện đương nhiệm để lập một vị mới nếu hoàn cảnh đòi buộc; nhưng quyền này bị hạn chế trong trường hợp Tổng Đại diện là một Giám mục. Thủ tục Giáo luật về việc cách chức Linh mục Tổng Đại diện còn đơn giản, gọn nhẹ hơn nhiều so với việc thuyên chuyển một Linh mục Chánh xứ.

 2. Ai được đặt làm Tổng Đại diện?
Khi giáo phận có Giám mục phó hay Giám mục phụ tá, các vị này sẽ là những ứng viên đầu tiên của chức Tổng Đại diện. Vì có chức Giám mục, các ngài thường được đặt làm Tổng Đại diện hay ít ra là Đại diện Giám mục. Nhưng khi một vị được tấn phong và bổ nhiệm làm Giám mục phụ tá với những năng quyền đặc biệt theo Giáo luật đ. 403 § 2, Giám mục giáo phận buộc phải đặt ngài làm Tổng Đại diện.
Nếu Tổng Đại diện là Giám mục thì về cơ bản quyền hạn vẫn giống như Linh mục Tổng Đại diện. Sự khác biệt là (1) vị Giám mục Tổng Đại diện có quyền Thánh Chức của một Giám mục,(2) khi trống tòa (tức Giám mục giáo phận qua đời, về hưu, thuyên chuyển hay bị cách chức), Linh mục Tổng Đại diện sẽ mất chức Tổng Đại diện; nếu đó là Giám mục phó, ngài đương nhiên trở thành Giám mục giáo phận và đặt người khác làm Tổng Đại diện; nếu là Giám mục phụ tá, ngài vẫn tiếp tục làm Tổng Đại diện và đảm trách việc chăm sóc mục vụ giáo phận trong giới hạn quyền hành đã được ban, cho đến khi có Giám quản giáo phận và (3) trong trường hợp Giám mục giáo phận bị huyền chức, nếu là Linh mục, quyền Tổng Đại diện bị đình chỉ; nếu là Giám mục, quyền Tổng Đại diện không bị đình chỉ. 

Khi bị cản tòa (tức Giám mục giáo phận bị tù tội, quản thúc, lưu đày hay mất năng lực), Tổng Đại diện, dù là Linh mục hay Giám mục, sẽ điều hành giáo phận với trách nhiệm và quyền hạn của một Giám quản giáo phận (đ.413 và đ. 414). Giám quản giáo phận không phải là Bản quyền địa phương.
Về ứng viên cách chung, Giáo luật đ. 478 quy định:
- là Tư tế;

- không dưới ba mươi tuổi;
- có bằng tiến sĩ hoặc thạc sĩ (Licentiate theo hệ thống văn bằng của Giáo hội thì tương đương với bằng đại học đệ nhị cấp, tức thạc sĩ) về Thần học hay Giáo luật hoặc thực sự thành thạo về các môn đó;
- trổi vượt về đạo lý lành mạnh, đức độ, khôn ngoan, và từng trải khi xử sự công việc.
- không là bà con huyết tộc của Giám mục giáo phận cho đến cấp thứ bốn.

Các qui định trên được hiểu như qui định về tình trạng Giáo luật, phẩm tính cá nhân và khả năng chuyên môn. Quy định cuối cùng nhằm tránh tiêu cực.
Tổng Đại diện phải là Tư tế, tức là Giám mục hay Linh mục. Qui định này hợp với vị trí của vị Tổng Đại diện khi ngài đại diện cho và như là “cái tôi khác” của Giám mục giáo phận. Nó cũng hợp với qui định Giáo luật về người thi hành quyền tài phán do chức vụ; người đó phải là giáo sĩ (đ. 129 § 1).
Bên cạnh việc ngài là Tư tế, vị Tổng Đại diện còn cần trổi vượt về những đức tính cá nhân như đạo lý lành mạnh, đạo đức hay sự thống nhất trong đời sống, sự khôn ngoan khéo léo và từng trải trong xử sự. Giáo luật đưa ra số tuổi tối thiểu là ba mươi, ám chỉ sự trưởng thành về tâm tính và các đức tính cá nhân cần thiết cho chức vụ này có thể đạt được từ tuổi ấy trở lên.
Giáo luật cũng qui định về việc Tổng Đại diện cần có bằng tiến sĩ hay thạc sĩ về Thần học hay Giáo luật, hay ít là thông thạo về các lãnh vực đó. Thông thường bằng cấp cho thấy khả năng tri thức và chuyên môn của một người, nhưng Giáo Hội biết rõ rằng nhiều người không sở hữu bằng cấp khoa bảng, vẫn thông thạo không kém gì những người có bằng cấp. Bên cạnh đó, năng lực lãnh đạo nhiều khi không phụ thuộc vào bằng cấp cho lắm.
Giáo luật loại trừ khả năng thiên vị trong việc bổ nhiệm nên qui định rằng Giám mục giáo phận không được bổ nhiệm người trong thân tộc của ngài cho đến cấp thứ bốn. Như thế, các anh hay em ruột ngài; cháu gọi ngài bằng cậu ruột, bác ruột, chú ruột hay con của những người này; các bác ruột chú ruột cậu ruột ngài hay con những người này; các anh em bà con khác tức con của dì ruột cô ruột ngài, đều không được bổ nhiệm.
Sau khi Giám mục giáo phận đã xem xét, việc bổ nhiệm là hoàn toàn thành sự. Tính hợp pháp của nó nằm ở chỗ Giám mục giáo phận thể hiện bằng một Văn thư Bổ Nhiệm.

3. Cha Tổng Đại diện làm gì và có quyền như thế nào?
a- Về các chức vụ nắm giữ, Giáo luật qui định một linh mục không nên vừa là Tổng Đại diện vừa là Kinh sĩ xá giải (đ. 478 § 2). Lý do là vì Tổng Đại diện thi hành quyền ở tòa ngoài, còn Kinh sĩ xá giải ở tòa trong. Hai chức vụ không tương thích thì không nên giao cho một người. Ở đ.1420 § 1, Giáo luật cũng qui định Tổng Đại diện và Đại diện tư pháp không nên là một người, trừ khi giáo phận quá nhỏ bé, thiếu nhân sự và vị Đại diện tư pháp quá nhàn hạ.

Ngoài những qui định trên, Linh mục Tổng Đại diện hoàn toàn có thể đảm nhận các chức vụ khác trong giáo phận, như Cha xứ, Cha Hạt Trưởng hay Đặc trách một hội đoàn… Giáo luật ưu tiên cho Tổng Đại diện việc làm Giám Đốc giáo phủ, tức làm người điều phối các hoạt động của giáo phận liên quan tới công tác hành chánh, cũng như làm sao để tất cả các nhân viên giáo phủ hoàn tất chu đáo trách vụ đã ủy thác cho họ (đ. 473 § 3).
b- Về quyền hạn của Tổng Đại diện trong giáo phận, Giáo luật cho biết Tổng Đại diện có quyền hành pháp như quyền của Giám mục giáo phận, trừ những gì Giám mục dành riêng cho chính ngài và những gì cần phải có ủy nhiệm đặc biệt của ngài. Do vậy, bàn về quyền của Tổng Đại diện đòi nỗ lực dài hơi. Sau đây xin trình bày những điểm chính yếu.
b1. Theo Giáo luật đ. 134 § 1 và 2, Tổng Đại diện là

- Bản quyền vì ngài có quyền hành pháp thông thường tổng quát;

- Bản quyền địa phương.
b2. Theo Giáo luật đ. 479 § 1 và 3, Tổng Đại diện

- có quyền hành pháp cách thông thường do chức vụ, nhưng thi hành quyền ấy cách đại diện hay nhân danh Giám mục giáo phận;

- có thể đưa ra các văn bản hành chánh cá biệt như nghị định, mệnh lệnh và phúc nghị, trừ qui định nói ở đ. 76 § 1;
- có thể thi hành quyền hành pháp trong toàn giáo phận và đối với mọi việc hành chánh, trừ những điều Giám mục giáo phận dành riêng cho chính mình và những điều luật đòi phải có ủy nhiệm từ Giám mục giáo phận;
- được hưởng trong phạm vi quyền hạn của mình các năng quyền thông thường mà Tòa Thánh ban cho Giám mục giáo phận, cũng như thi hành các phúc nghị, trừ khi có quy định minh nhiên cách khác hay khi Giám mục giáo phận đã được chọn để thi hành các phúc nghị ấy do tài cán cá nhân của ngài.
b3. Khi được Giám mục giáo phận ủy quyền, Tổng Đại diện có thể ra các văn bản hành chánh dành riêng cho Giám mục giáo phận, như:
- bổ nhiệm một linh mục vào một chức vụ thuộc mục vụ (đ. 524 và đ. 539);
- ban hành văn bản xuất tịch và nhập tịch cho các giáo sĩ (đ. 267 § 1);
- viết thư giới thiệu ủy quyền phong chức giáo sĩ triều (đ. 1018 § 1, số 1);
- cho phép thiết lập một nhà thờ hay chuyển đổi nó sang mục đích sử dụng khác (đ. 1215 § 1 và đ. 1222).
b4. Quyền miễn chuẩn:

Là Đấng Bản quyền địa phương và với quyền hành pháp thông thường tổng quát, Tổng Đại diện có thể miễn chuẩn cho các tín hữu thuộc giáo phận, cả khi họ hay chính ngài ở ngoài lãnh địa của giáo phận (đ. 85 và đ. 136), các trường hợp cụ thể như sau:

- trong trường hợp việc thượng cầu lên Tòa Thánh gặp khó khăn trì hoãn và do đó có nguy cơ gây thiệt hại cho đương sự khi ngài xét rằng sự miễn chuẩn ấy vẫn thường được Tòa Thánh ban, Tổng Đại diện có thể miễn chuẩn các nố dành riêng cho Tòa Thánh, trừ luật độc thân linh mục theo đ. 291 dành riêng cho Đức Thánh Cha (đ. 87 § 2);
- khỏi giữ luật giáo phận và khi xét thấy lợi ích thiêng liêng cho giáo hữu, ngài có thể miễn chuẩn cả luật của công đồng miền, giáo tỉnh hay của Hội đồng Giám mục (đ. 88);
- ngăn trở đối với hôn nhân khác đạo và hôn nhân hỗn hợp (đ. 1125 và đ. 1127 § 2);
- các ngăn trở hôn phối theo luật Giáo Hội, trừ những điều dành riêng cho Tòa Thánh (đ. 1078 § 1); trong lúc nguy tử, ngài có thể miễn chuẩn các hình thức cử hành hôn phối và tất cả ngăn trở theo luật Giáo Hội dù công khai hay kín đáo, trừ những ngăn trở thuộc về Thánh Chức linh mục (đ. 1079 § 1).
b5. Ban phép hay cấm chỉ:

- ban phép hay cấm chỉ việc cử hành bí tích Hôn Phối theo đ. 1071;

- cấm chỉ trong trường hợp đặc biệt, cá biệt và trầm trọng đối với một hôn phối của giáo dân thuộc quyền, dù họ ở ngoài giáo phận và của những giáo dân không thuộc quyền đang hiện diện trong giáo phận (đ. 1077 § 1);
- ban năng quyền giải tội (đ. 969 § 1) và thu hồi năng quyền ấy (đ. 974 § 2);
- ban phép cho một linh mục già yếu được ngồi khi cử hành Thánh lễ cho giáo dân (đ. 930 § 1);
- hạn chế hay cấm chỉ một giáo sĩ thi hành việc giảng Lời Chúa (đ. 746), bổ nhiệm hay cách chức một giáo viên dạy về tôn giáo (đ. 804 và đ. 805);
Tất cả những điều Giáo luật dành cho Bản quyền và Bản quyền địa phương đều nằm trong phạm vi quyền hạn của Tổng Đại diện, miễn là Giám mục giáo phận không minh nhiên dành riêng cho ngài và luật không minh nhiên đòi sự ủy nhiệm đặc biệt từ Giám mục giáo phận.
c- Quyền của Tổng Đại diện không bao giờ tách rời khỏi quyền của Giám mục giáo phận.
c1. Theo Giáo luật đ. 480, thì Tổng Đại diện phải tường trình cho Giám mục giáo phận về những hoạt động quan trọng phải làm và đã làm. Ngài không bao giờ được mảy may hành động trái với ý muốn và mục đích của Giám mục giáo phận.
c2. Đ. 481 § 1 cho biết quyền hành của Tổng Đại diện chấm dứt ngay khi sự ủy nhiệm đã mãn hạn hay do chính ngài từ chức và được Giám mục giáo phận chấp nhận và, nếu ngài không phải là Giám mục, khi ngài bị Giám mục giáo phận cách chức, cũng như khi giáo phận trống tòa.

Khi Giám mục giáo phận bị huyền chức thì quyền của vị Tổng Đại diện không là Giám mục, cũng bị đình chỉ nốt (đ. 481 § 2).

 Kết luận

Tổng Đại diện là vị đại diện chính của Giám mục giáo phận trong việc thi hành quyền hành pháp. Ngài là Bản quyền địa phương. Do chức vụ Tổng Đại diện, ngài nhận lãnh quyền hành pháp thông thường chứ không phải quyền thừa ủy, nhưng ngài thi hành quyền ấy cách đại diện, vì ngài đại diện và nhân danh Giám mục giáo phận.
Ngài thi hành quyền hành pháp trong toàn giáo phận và vì thế trong giáo phận, ngài là quan chức cao cấp nhất sau Giám mục giáo phận. Ngài được Giám mục giáo phận tự do tuyển chọn và bổ nhiệm, nhưng chức vụ và quyền hạn của ngài sẽ mất ngay khi thời hạn bổ nhiệm qua đi hay khi giáo phận trống tòa.
Trước mặt Chúa Ki-tô, không một nam nhân nào dám tự cho mình xứng đáng để lãnh nhận thiên chức Linh mục. Nhưng qua cộng đoàn Dân Chúa, qua các vị hữu trách và nhất là qua sự tuyển chọn của Giám mục giáo phận, những con người tài hèn sức mọn và yếu đuối tứ bề “được xem là xứng đáng”. Tình yêu và ơn thánh Chúa bù đắp cho những thiếu sót của con người.

Chức Tổng Đại diện cũng vậy. Không ai dám cho mình là xứng đáng. Nhưng chính sự lựa chọn và bổ nhiệm của Đức Giám mục giáo phận, làm cho vị Tổng Đại diện nên xứng đáng hơn mọi người. Mầu nhiệm và ơn tuyển chọn luôn là bí quyết và là quyền năng của Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu độ và lịch sử Giáo Hội. Trở nên khí cụ của Chúa Thánh Thần mới là điều thiết yếu cho mọi chức vụ.
Do đó, đừng đòi hỏi nơi Cha Tổng Đại diện những bài giảng nảy lửa, những tuyên bố rợn người hay những cải tổ có tính cách mạng, vì đó không phải là trách nhiệm của ngài. Nhưng hãy kính yêu, vâng lời, cộng tác trong mọi sự và cầu nguyện cho ngài, để ngài luôn gắn bó cách hiệu quả với Đức Giám mục trong việc coi sóc và điều hành giáo phận, như “cặp đôi hoàn hảo” trong “vũ điệu mục vụ” luôn chan chứa những luyến láy của ơn trời và in đậm những thăng trầm lặng của cuộc nhân sinh.
Linh mục GB. Nguyễn Hồng Uy,
Nguồn: Website GP.Phan Thiết 

Giáo Phận Kon Tum: Chúc Mừng Tân Tổng Đại Diện Cha Giuse Đỗ Hiệu Và Tri Ân Cha Nguyên Tổng Đại Diện Phêrô Nguyễn Vân Đông


 

WGPKT(21/05/2020) KONTUM

Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2020

350 Năm Dòng Mến Thánh Giá: Lịch Sử Dòng Mến Thánh Giá Thời Kỳ Đầu (1670 – 1700)


 

NĂM THÁNH MỪNG 350 NĂM
THÀNH LẬP DÒNG MẾN THÁNH GIÁ
Bài 2: LỊCH SỬ DÒNG MẾN THÁNH GIÁ THỜI KỲ ĐẦU (1670 – 1700)

I.GIÁO HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẦU

Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, từ lúc khai sinh đến khi trưởng thành, được dệt nên từ tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Mỗi trang sử của Giáo Hội là một minh chứng về sự dẫn dắt, chở che và yêu thương của Ngài.

  1. Bối cảnh xã hội

Vào đầu thế kỷ XVI, sự nghiệp Nhà Lê bắt đầu suy tàn, nước Đại Việt phải gánh chịu hai cuộc phân tranh Lê – Mạc (1533-1592) và Trịnh – Nguyễn (1627-1672)[1]. Những cuộc nội chiến liên miên và kéo dài đã làm đất nước suy yếu và khiến cuộc sống của người dân vô cùng cơ cực. Trong bối cảnh xã hội như vậy, hạt giống Phúc Âm được gieo trên đất Việt, và Giáo Hội Việt Nam được khai sinh giữa biết bao gian nan thử thách, có lúc tưởng chừng như mất hút vì các cuộc cấm cách và bách hại, nhưng thực tế vẫn luôn còn đó một sức sống mãnh liệt phát sinh từ niềm tin kiêu hùng làm trổ sinh hoa trái dồi dào trong Giáo Hội.

  1.    Tóm tắt lịch sử truyền giáo ở Việt Nam cho đến đầu thế kỷ XVII

Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam được khởi đi từ việc thông thương buôn bán giữa các nước Tây phương với các nước Đông Nam Á. Những người Tây phương đầu tiên đến Việt Nam là người Bồ Đào Nha, Anh, Pháp và Hòa Lan… Mục đích của người Hòa Lan và người Anh là buôn bán, còn đối với người Bồ Đào Nha và người Pháp, ngoài buôn bán, họ còn nhận thêm sứ mệnh truyền giáo.

Mặc dù trong lịch sử đã có đôi nét về một giáo sĩ tên là I-ni-khu đến giảng đạo tại Việt Nam ngay từ giữa thế kỷ XVI[2], nhưng công cuộc truyền giáo ở Việt Nam chỉ thật sự bắt đầu với các thừa sai Dòng Tên từ đầu thế kỷ XVII. Vào ngày 18/01/1615, thừa sai Dòng Tên đầu tiên là Francesco Buzomi đặt chân lên đất Việt, tại Đà Nẵng. Ngay trong năm đầu, việc truyền giáo đạt kết quả, thành tích vang dội tới Macao, vì thế, các thừa sai được tiếp tục gửi đến Việt Nam. Những người hoạt động lâu nhất là cha Majorica, cha Buzomi, cha Đắc Lộ, cha Pina… Các ngài cũng là những người để lại nhiều dấu ấn trên đất Việt[3].

  1.     Công cuộc truyền giáo của Giáo Hội

Một cách tổng quát, công cuộc truyền giáo của Giáo Hội tại Việt Nam có hai giai đoạn: giai đoạn của chế độ Bảo Trợ và giai đoạn của các vị Đại Diện Tông Tòa.

      3.1. Dưới chế độ Bảo Trợ

Từ cuối thế kỷ XV, việc khám phá các vùng đất mới ở Châu Phi, Châu Mỹ và Châu Á đã mở ra cơ hội cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội toàn cầu. Tuy nhiên, vì không đủ thực lực về tài chính, nhân sự và phương tiện vận chuyển, nên Giáo Hội phải nhờ cậy vào thế quyền để có thể thi hành sứ vụ của mình, qua việc giao nhiệm vụ truyền giáo cho các nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, là hai cường quốc xâm chiếm thuộc địa hàng đầu thời đó. Cùng với việc giao nhiệm vụ truyền giáo, quyền Bảo Trợ cũng được đặt ra cho hai vương triều này. Thực tế, chế độ Bảo Trợ đã có những đóng góp nhất định cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, nhưng khi các vương triều đặt quyền lợi chính trị và kinh tế của đế quốc lên hàng đầu thì họ lại chối bỏ trách nhiệm truyền giáo của mình; hơn nữa trong nếp sống còn có những biểu hiện không phù hợp với người thợ Phúc Âm[4].

       3.2. Chủ trương mới của Tòa Thánh

Trước những lạm dụng của các vị vua Bảo Trợ, công cuộc truyền giáo chẳng những không có hiệu quả như thời gian đầu, trái lại còn gây ra những hệ luỵ tiêu cực. Vì thế, năm 1622, Tòa Thánh đã thành lập Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin (còn được gọi là Bộ Truyền Giáo) để dần lấy lại quyền điều hành công cuộc truyền giáo của mình[5].

       3.3. Công cuộc vận động của cha Đắc Lộ tại Rôma

Sau hai mươi năm truyền giáo ở Đàng Ngoài và Đàng Trong, cha Đắc Lộ bị trục xuất khỏi Đàng Trong và trở về Macao vào tháng 07/1645. Giữa năm 1649, ngài tới Rôma thực hiện sứ mạng do Tỉnh Dòng Nhật Bản giao phó là xin Tòa Thánh gửi Giám Mục sang Đàng Trong và Đàng Ngoài, để truyền chức linh mục cho người bản xứ và tổ chức công cuộc truyền giáo “trong phần đất dân ngoại”; đồng thời vận động các vua chúa Công Giáo yểm trợ tài chính và xin cha Bề Trên Cả Dòng Tên gửi thêm thừa sai cho miền truyền giáo Đông Nam Á. Trong chương trình lớn lao này, ngài được cha Bagot mời tới nói chuyện với Nhóm Bạn Hiền tại Paris năm 1653. Tất cả đều ủng hộ và tỏ ra hăng say với việc đi truyền giáo ở Viễn Đông[6].

Nhiệt tình của Nhóm Bạn Hiền do cha Đắc Lộ gợi hứng bị khựng lại do phản ứng của Vua Bồ Đào Nha dưới triều đại của Đức Giáo Hoàng Innôcentê X. Nhưng vào năm 1655, Đức Tân Giáo Hoàng Alexander VII đã nhiệt tâm và đầy can đảm trong việc giành lại thế chủ động cho Tòa Thánh trong công cuộc truyền giáo. Ngài cho xúc tiến kế hoạch của cha Đắc Lộ với Nhóm Bạn Hiền. Kế hoạch này được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của bà công tước d’Aiguillon và của Hiệp Hội Thánh Thể[7].

       3.4. Thiết lập Địa Phận Đại Diện Tông Tòa

Bước đầu tiên trong đường hướng truyền giáo mới của Tòa Thánh là thiết lập các Địa Phận Đại Diện Tông Toà. Vì thế, ngày 13/05/1658, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin đề nghị bổ nhiệm hai cha Francois Pallu và Pierre Lambert làm Giám Mục. Ngày 08/06/1658, Đức Thánh Cha Alexander VII phê chuẩn, và tiếp đó, ngày 29/07/1658, ngài ký đoản sắc Apostolatus Officium bổ nhiệm Đức Cha Francois Pallu làm Giám Mục hiệu tòa Héliopolis (nay là Baalbeck, thuộc Syria) và Đức Cha Pierre Lambert de la Motte làm Giám Mục hiệu tòa Bérythe (nay là Beyrouth, thuộc Liban)[8].

Ngày 17/08/1658, Thánh Bộ chỉ định miền truyền giáo cho Đức Cha Francois Pallu và Đức Cha Pierre Lambert. Ngày 09/09/1659, Đức Giáo Hoàng Alexander VII ký Sắc chỉ Super Cathedram thiết lập hai Địa Phận Đại Diện Tông Toà: Đàng Ngoài và Đàng Trong; bổ nhiệm Đức Cha Francois Pallu cai quản Địa Phận Đàng Ngoài và năm tỉnh của Trung Hoa (Vân Nam, Quý Châu, Hồ Quảng, Quảng Tây, Tứ Xuyên) và nước Lào; Đức Cha Pierre Lambert cai quản Địa Phận Đàng Trong, một số tỉnh của Trung Hoa (Chiết Giang, Giang Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông) và Đảo Hải Nam[9].

  1.    Huấn Thị năm 1659[10]

Tiếp theo sắc chỉ phân chia vùng hoạt động, Thánh Bộ còn gửi cho hai vị Tân Giám Mục bản Huấn Thị khá chi tiết, hướng dẫn rất rõ những việc các vị Đại Diện Tông Tòa phải làm trước khi lên đường truyền giáo, trên đường đi và ngay tại miền truyền giáo.

Như vậy, sau gần nửa thế kỷ khai phá của các thừa sai Dòng Tên, với biết bao công lao gian khó, việc Tòa Thánh bổ nhiệm hai Giám Mục Đại Diện Tông Tòa đầu tiên cho hai Địa Phận Đàng Ngoài và Đàng Trong, cùng với việc vạch ra định hướng truyền giáo, đã khai mở một giai đoạn mới cho việc loan báo Phúc Âm ở Việt Nam. Công trình này đưa đến việc hình thành một Giáo Hội, cả ở bình diện Dân Chúa và bình diện phẩm trật, mà công trạng đầu thuộc về hai Giám Mục tiên phong, cách riêng, Đức Cha Pierre Lambert de la Motte, người sống hết mình cho sứ vụ và chết trên cánh đồng truyền giáo.

II.THÀNH LẬP DÒNG MẾN THÁNH GIÁ

  1.    Vườn ươm của Thiên Chúa

Hạt giống Mến Thánh Giá được Thiên Chúa ưu tuyển dành cho chương trình yêu thương của Ngài. Thật thế, Thiên Chúa đã gieo vào tâm hồn Pierre Lambert hạt giống quý là hình ảnh Những Người Say Mến Thánh Giá khi cậu mới lên chín tuổi vào năm 1633.

Hình ảnh mờ nhạt về Những Người Say Mến Thánh Giá tại Lisieux trong tâm trí cậu Pierre Lambert được hiện rõ nét hơn khi Pierre Lambert trở thành Giám Mục Đại Diện Tông Tòa Đàng Trong, vào dịp tĩnh tâm tại Ayutthaya năm 1663. Vì say mê lối sống của Những Người Say Mến Thánh Giá này đến nỗi, nếu có thể, ngài sẽ sống với họ và như họ[11].

Trong khi đó, tại vùng truyền giáo Viễn Đông xa xôi, Thiên Chúa đã gợi lên trong tâm hồn một số phụ nữ đạo đức lòng ao ước sống tiết dục và sống chung với nhau để phụng sự Thiên Chúa Nhân Lành theo cách thức Ngài muốn, nhưng chưa được ai hướng dẫn cụ thể. Họ như mảnh đất tốt, sẵn sàng để nhận hạt giống Mến Thánh Giá đã được ươm mầm trong tâm hồn Đức Cha Pierre Lambert de la Motte từ thuở ấy.

Và như thế, hạt giống Mến Thánh Giá đã nảy mầm từ cuộc gặp gỡ giữa hai chủ thể, một người từ phương Tây và một nhóm phụ nữ ở phương Đông. Đây không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng do lòng nhân hậu của Thiên Chúa Quan Phòng đã muốn tuyển chọn một số người, để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho các linh hồn bằng con đường Yêu Mến Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh, là đối tượng duy nhất của lòng trí họ.

  1.    Thành Lập Dòng Mến Thánh Giá tại Đàng Ngoài năm 1670

       2.1. Kế hoạch của Thiên Chúa

Ngay từ năm 1666, qua vị thừa sai thân tín là cha Francois Deydier, Đức Cha Lambert được biết: tại Đàng Ngoài có những thiếu nữ đã dâng hiến cho Thiên Chúa đức đồng trinh của mình và một số quả phụ trẻ từ chối việc tái hôn[12]. Về phần Đức Cha Lambert, ngài đã có ý định thành lập Dòng Mến Thánh Giá từ tháng 10/1667, nhưng chưa thể thực hiện[13].

Mặc dù có nhiều khó khăn, nhưng trong chuyến kinh lý mục vụ ở Đàng Ngoài, từ ngày 30/08/1669 đến ngày 14/03/1670, Đức Cha Pierre Lambert đã thực hiện một số việc quan trọng cho tương lai Giáo Hội Việt Nam, trong đó có việc thành lập Dòng Mến Thánh Giá như một phương thế sống đạo và hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo.

Khi Đức Cha Lambert sang kinh lý Đàng Ngoài, cha Francois Deydier đã trình với Đức Cha lời xin của khoảng 30 thiếu nữ và quả phụ đã quen sống đời khắc khổ, muốn có một tập điều lệ để sống chung[14]. Đáp lại yêu cầu này, Đức Cha gửi cho các chị một lá thư, kèm theo một số điều lệ nhỏ, trong đó ngài nói rõ: “Chính nhận thức mang tính thúc bách đó đã khiến cha nảy ra ý tưởng muốn đề nghị với các con một lối sống, mà cha nhận thấy rất thuận lợi để làm sáng danh Chúa”. Lối sống mà Đức Cha muốn giới thiệu với nhóm phụ nữ này là lối sống của những người thuộc một dòng tu. Trong bối cảnh thuận lợi đó, Đức Cha Lambert quyết định thành lập Dòng Mến Thánh Giá.

       2.2. Thành Lập

Như vậy, việc các phụ nữ sống chung thành cộng đoàn đã có từ thời các thừa sai Dòng Tên, nhưng việc hình thành một Dòng Tu đúng nghĩa còn phải chờ “một ai đó” vừa có thẩm quyền, vừa có “ước nguyện lớn lao”, lại vừa có những chuẩn bị thiết thực. “Một ai đó” chính là Đức Cha Pierre Lambert de la Motte.

Trong số những phụ nữ thánh thiện trên, Đức Cha Lambert tuyển chọn hai thành viên đầu tiên là chị Anê và Paula. Ngày hồng phúc đã đến, Thứ Tư Lễ Tro, ngày 19/02/1670, hai chị được diễm phúc tuyên khấn công khai trước sự hiện diện của Đấng Sáng Lập[15]. Như vậy, ngày 19/02/1670 chính là ngày Dòng Mến Thánh Giá được khai sinh.

Có thể Lễ Khấn được cử hành trên chiếc thuyền tại Phố Hiến, nơi Đức Cha Lambert cử hành các việc đạo trong suốt thời gian ngài kinh lý mục vụ ở Đàng Ngoài[16]. Trong ngày trọng đại này, Đấng Sáng Lập còn trao cho các chị Bản Luật mà chính ngài đã soạn thảo.

Do hoàn cảnh không cho phép, nên ngay sau Lễ Khấn, Đức Cha phải vội vã lên đường trở về Thái Lan. Trong lúc chờ thuyền rời bến, ngày 26/02/1670, ngài đã viết một Bức Tâm Thư gửi lại cho hai người con tinh thần của ngài là Anê và Paula, để nhắn nhủ các chị đôi điều về bậc sống của mình và bày tỏ tình yêu thương của ngài qua những lời trong Bức Tâm Thư ấy.

  1.    Thành lập Dòng Mến Thánh Giá tại Đàng Trong năm 1671

Cũng như tại Đàng Ngoài, Đức Cha Lambert được biết ở Đàng Trong có những phụ nữ đức hạnh muốn sống đời tận hiến cho Chúa. Chắc hẳn khi đến Đàng Trong, Đức Cha rất vui mừng gặp được các phụ nữ đó, với ý định tốt lành của họ, một ý định hoàn toàn trùng hợp với ý định của Đức Cha là thành lập Dòng Mến Thánh Giá khi có cơ hội[17].

Trong chuyến kinh lý Đàng Trong lần thứ nhất, trên đường từ Nha Trang đến Hội An, Đức Cha Lambert dừng chân ở An Chỉ và lưu lại năm tuần trong nhà bà Lucia Kỳ[18], một goá phụ vừa đạo đức và khôn ngoan, vừa khá giả và quảng đại. Sau khi biết ý định của Đức Cha, bà Lucia đã dâng cúng cơ sở vật chất làm nơi cư trú cho các thành viên Mến Thánh Giá đầu tiên ở Đàng Trong. Chính tại nhà bà, Đức Cha đã cho gọi đến một số phụ nữ đã có ước nguyện tận hiến cho Thiên Chúa một cách trọn hảo nhất, để đích thân ngài tìm hiểu ý hướng tu trì của họ và trao đổi về đời sống thiêng liêng. Sau đó, để nhờ đến phương thế siêu nhiên, Đức Cha truyền cho các chị làm tuần cửu nhật trước khi ngài quyết định một việc quan trọng[19].

Vào tháng 12/1671, Đức Cha Pierre Lambert chính thức thành lập Dòng Mến Thánh Giá ở Đàng Trong, tại An Chỉ với cộng đoàn đầu tiên gồm 10 chị. Chị Bề Trên là em của cha Giuse Trang, 30 tuổi, một thiếu nữ thánh thiện nên được chị em yêu mến, kính trọng[20]. Các chị sống theo cùng một Bản Luật mà Đức Cha đã trao cho các chị Mến Thánh Giá tại Đàng Ngoài. Tuy nhiên, các chị chưa được khấn ngay, mà phải chuẩn bị thêm một thời gian nữa.

Năm 1675, vào dịp kinh lý Đàng Trong lần thứ hai, Đức Cha Lambert đến thăm các chị Mến Thánh Giá là những người kiên trung giữ Bản Luật đã nhận được từ Đấng Sáng Lập. Trong dịp này, Đức Cha tuyển chọn những chị kỳ cựu và thánh thiện nhất để cho tuyên khấn. Ngày 13/12/1675, Đức Cha Lambert đã nhận lời khấn của bốn chị tại Bàu Tây, và ngày 18/12/1675, ngài nhận lời khấn của một chị tại An Chỉ. Các chị tuyên ba lời khấn đơn, công khai một cách rất sốt sắng trước sự hiện diện của Đấng Sáng Lập, khi các tín hữu hội họp lại tham dự Thánh Lễ do Đức Giám Mục cử hành[21].

  1.    Thành lập Dòng Mến Thánh Giá tại Thái Lan năm 1672

Việc thành lập Dòng Mến Thánh Giá là một trong ba dự án của Đức Cha Lambert vào năm 1667[22]. Theo dự tính, dự án này sẽ thực hiện đầu tiên tại Thái Lan, nhưng trong thực tế Dòng Mến Thánh Giá Thái Lan chỉ được thành lập sau chuyến kinh lý Đàng Trong lần thứ nhất của Đức Cha.

Vào tháng 04/1672, khi từ Đàng Trong trở lại Ayutthaya, Đức Cha Lambert đã thành lập Dòng Mến Thánh Giá Thái Lan, khi gặp được một số phụ nữ sẵn sàng đi vào con đường đó. Có một điều đặc biệt là tất cả các phụ nữ này đều là người gốc Đàng Trong[23]. Khởi đầu, có bốn hoặc năm chị được gia nhập Dòng thánh thiện này với niềm vui tận hiến và lòng nhiệt thành trong các nghĩa vụ. Các chị bắt đầu đời tu bằng thời gian thử, và vào cuối năm đó, được tuyên khấn trong tay Đấng Sáng Lập. Ngài cũng trao cho các chị Bản Luật Dòng Mến Thánh Giá như ở Đàng Ngoài và Đàng Trong[24].

Mặc dù được chính Đức Cha Pierre Lambert thành lập và quan tâm, nhưng cộng đoàn Mến Thánh Giá đầu tiên ở Thái Lan hầu như “biến mất” trong một thời gian dài. Có lẽ Dòng không phát triển được vì ngoài các khó khăn mà các chị phải chịu, còn một lý do khác là các triều vua liên tiếp ở Thái Lan đều ra lệnh nghiêm cấm các thừa sai giảng đạo cho người Thái và cấm người Thái gia nhập Công Giáo. Mãi đến thời Đức Cha Garnault (1786-1811), hình ảnh nữ tu Mến Thánh Giá mới xuất hiện trở lại trên đất nước Thái Lan[25].

III.DÒNG MẾN THÁNH GIÁ TRONG BA THẬP NIÊN TIẾP THEO

Kể từ ngày thành lập cho đến hết thế kỷ XVII (1670-1700), Dòng Mến Thánh Giá tuy gặp nhiều khó khăn nhưng đã có những bước phát triển đáng kể, nhất là về mặt nhân sự và cơ sở; từ hai nhà ban đầu tăng lên 20 nhà, từ hai chị khấn đầu tiên tăng lên 150 chị[26].

Về phương diện pháp lý, ngày 28/08/1678, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin đệ trình Đức Thánh Cha Nghị định xin ban ân xá cho hai Hiệp Hội Mến Thánh Giá mà Đức Cha Pierre Lambert đã thành lập tại Đàng Ngoài. Ngày 02/01/1679, Đức Thánh Cha Innocentê XI ký Tông thư Cum Sicut ban ân xá cho các Hiệp Hội Mến Thánh Giá. Đây là một sự nhìn nhận có tính cách pháp lý về sự hiện diện của Dòng Mến Thánh Giá trong Giáo Hội. Chính Đức Cha Francois Pallu đã góp một phần không nhỏ, trong việc liên hệ với Tòa Thánh, để thỉnh nguyện thư xin ân xá của Đức Cha Lambert nhận được kết quả tốt đẹp[27].

Để có được những thành quả như trên, ngoài ơn Chúa và một linh đạo phù hợp với tâm thức người phụ nữ Việt Nam, nhất là các Kitô hữu, cũng như một lối sống hòa đồng với xã hội; còn có một nguyên nhân rất quan trọng khác, đó là sự quan tâm ưu ái của chính Đấng Sáng Lập và các vị kế nhiệm ngài dành cho Dòng Mến Thánh Giá.

Đối với Dòng Mến Thánh Giá tại Đàng Trong, đây là Dòng được Đức Cha Lambert thành lập năm 1671 và may mắn được ngài thăm viếng lần thứ hai vào năm 1675. Thế nhưng, sự hiện diện của chị em Mến Thánh Giá từ đó cho đến những năm cuối của thế kỷ XVII xem ra khá mờ nhạt, vì đây là thời kỳ cấm đạo, thêm nữa là tình trạng thiếu vắng Giám Mục, hoặc nếu có thì các ngài cũng ít quan tâm đến Dòng Mến Thánh Giá.

Khi đọc lại quá trình thành lập và những năm khởi đầu của Dòng Mến Thánh Giá, người ta dễ liên tưởng tới hình ảnh hạt cải trong Phúc Âm. Dòng Mến Thánh Giá được ví như hạt cải nhỏ bé được gieo vào lòng Giáo Hội và xã hội, đã âm thầm nẩy mầm rồi đâm chồi nảy lộc. Tuy chưa thể là cây cao bóng cả, nhưng Dòng cũng đủ mạnh để có thể đứng vững giữa phong ba bão tố, vượt qua bao khó khăn thử thách kéo dài hàng trăm năm.

Nhóm Nghiên Cứu Linh Đạo Mến Thánh Giá
WHĐ, 14-05-2020
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN số 116 (Tháng 1 & 2, năm 2020)
WGPKT(15/05/2020) KONTUM  

[1]  X. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, nxb Văn Hóa Thông Tin, 2008, tr.275- 284.
[2]  X. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, tập II, bản dịch Viện Sử Học, Hà Nội, Giáo Dục, 1998, tr.300-301.
[3]  Danh sách các thừa sai Dòng Tên truyền giáo ở Đàng Trong từ 1615-1663, theo Montezon, La mission de Cochinchine et du Tonkin, tr.390-393.
[4]  X. Đỗ Quang Chính, Hai Giám Mục Đầu Tiên Tại Việt Nam, Tp.HCM, lưu hành nội bộ, 2005, tr.26-30.
[5]  X. nt., tr.17.
[6]  Cf. J. Guennou, Missions Étrangères de Paris, Fayard, 1986, p.35.
[7]  X. Đỗ Quang Chính, Hai Giám Mục Đầu Tiên Tại Việt Nam, sđd., tr.92-93.
[8]  X. nt., tr.98.
[9]  Cf. A. Launay, Histoire de la mission de Cochinchine, tome I, Paris, Téqui, 1923, pp.9-10.
[10] Cf. H. Chappoulie, Aux Origines d’une Église: Rome et les Missions d’Indochine au XVIIe siècle, tome I, Paris, Bloud et Gay, 1943, pp.392- 402.
[11] Nhóm NCLĐMTG, “Bài Nguyện Ngắm, 03/11/1663” (Nguyện Ngắm 3) , trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte…, sđd., sđd., 5-6, tr.51.
[12] Cf. AMEP, vol. 677, p.53.
[13] X. Nhóm NCLĐMTG, “Thư Gửi Đức Cha Francois Pallu: Dự Án Tổng Quát, 1667” (Dự Án) , trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte…, sđd., 3, tr.93.
[14] Cf. AMEP, vol. 677, p.15.
[15] X. Nhóm NCLĐMTG, “Thư Gửi Bà Anê và Bà Paula” (Bức Tâm Thư) , trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte…, sđd., 2, tr.40.
[16] X. Phi Khanh Vương Đình Khởi, “Mẹ Giáo Hội Việt Nam Có Hai Chiếc Thuyền”, trong báo Hiệp Thông số 42, tháng 07-08/2007, tr.163-181.
[17] Cf. A. Launay, Histoire de la mission de cochinchine, tome I, op.cit., p.95.
[18] X. Đào Quang Toản, Mến Thánh Giá Thế Kỷ XVII, sđd., tr. 33, chú thích số 10.
[19] Cf. A. Launay, Histoire de la mission de Cochinchine, tome I, op.cit.,pp.95-96.
[20] X. Đỗ Quang Chính, Dòng Mến Thánh Giá Những Năm Đầu, sđd., tr.91-93.
[21] Cf. AMEP, vol. 877, p.574.
[22] Cf. AMEP, vol. 857, pp.224-225.
[23] Cf. A. Launay, Histoire de la mission de Siam, tome I, op.cit.,p.18.
[24] Cf. AMEP, vol. 131, p.266.
[25] Cf. A. Launay, Histoire de la mission de Siam, tome I, op.cit.,p.173.
[26] X. Đỗ Quang Chinh, Dòng Mến Thánh Giá Những Năm Đầu, sđd., tr.132.
[27] X. Đào Quang Toản, Đức Cha Francois Pallu và Dòng Mến Thánh Giá, 2010, tr.48.57.

Mừng Kỷ Niệm 50 Năm Linh Mục của Cha Giuse Nguyễn Đức Chương (1970-2020)


Kỷ Yếu Bok Chương – Mừng 50 Năm Linh Mục


WGPKT(16/05/2020) KONTUM

Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: Thư Gửi Cộng Đồng Dân Chúa (05-05-2020)


06/05/2020
  •  
  •  
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAMTHƯ GỬI CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA
Ngày 05 tháng 05 năm 2020
Anh chị em thân mến,
Từ đầu năm 2020 đến nay, cả thế giới phải vật lộn với đại dịch COVID-19 và sức tàn phá khủng khiếp của nó. Việc phòng chống dịch bệnh tại các quốc gia cũng như tại Việt Nam đã làm cho nhiều sinh hoạt xã hội bị đình trệ, kể cả sinh hoạt tôn giáo. Nay lệnh cách ly xã hội vì dịch bệnh đang được nới lỏng từng bước, một số Giáo phận đang chuẩn bị tổ chức lại các sinh hoạt tôn giáo. Trong bối cảnh đặc biệt này, với trách nhiệm mục tử, chúng tôi gửi đến anh chị em thư này để cùng với anh chị em lắng nghe những “dấu chỉ của thời đại”, và suy nghĩ về đời sống Giáo hội trong tương lai.
Nhìn lại công tác phòng chống dịch bệnh hơn một tháng qua, người Công giáo chúng ta đã cùng với toàn xã hội vẽ nên một hình ảnh đẹp về tình liên đới, cùng lo lắng trước mối nguy hiểm của dịch bệnh, và cùng nỗ lực phòng chống hết sức có thể. Với ý thức đó, chúng ta đã cùng mọi thành phần xã hội tuân thủ những chỉ thị của cơ quan công quyền và chuyên môn, để phòng chống dịch bệnh một cách khá hiệu quả tại Việt Nam. Cụ thể là chúng ta đã chấp nhận hạn chế các sinh hoạt tôn giáo, kể cả trong Tuần Thánh và Phục Sinh là cao điểm và tâm điểm của Năm phụng vụ.
Cũng trong thời gian qua, nhiều dấu hiệu của đức tin trưởng thành được biểu lộ, như sự quý trọng Thánh Lễ, khao khát được rước Thánh Thể, hiệp thông với Đức Thánh Cha Phanxicô và với toàn Giáo hội để cầu xin Thiên Chúa cứu thoát nhân loại sớm thoát khỏi dịch bệnh. Hơn nữa, nhiều cá nhân cũng như nhiều tập thể còn tham gia các chương trình trợ giúp khẩn cấp cho những người túng thiếu trong hoàn cảnh dịch bệnh. Đồng thời, ý thức trách nhiệm cũng được nâng cao đối với môi trường sống, môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội cũng như môi trường tâm linh.
Tuy nhiên, tình trạng không thể quy tụ mỗi Chúa nhật để cử hành phụng vụ chắc chắn cũng ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của các cộng đoàn, vì chính “vào ngày thứ nhất trong tuần”, Chúa Kitô Phục sinh đã quy tụ các môn đệ đang tản mác thành một cộng đoàn (X. Ga 20,19-31). Chúng tôi đặc biệt quan tâm và chia sẻ những lo lắng của các bậc phụ huynh đối với giới trẻ và thiếu nhi. Thật vậy, sẽ rất thiệt thòi cho đời sống đạo của giới trẻ và thiếu nhi nếu không sớm mở lại các lớp Giáo lý, không sớm tổ chức lại các sinh hoạt đoàn thể trong giáo xứ, giáo hạt và giáo phận, không lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là xưng tội, tham dự Thánh Lễ và rước lễ. Trong một thời đại mà nhu cầu tâm linh bị xếp vào hàng thứ yếu, các em sẽ dễ sa ngã trước những quyến rũ vật chất và hưởng thụ, đến nỗi coi đó như mục đích tối hậu của cuộc đời.