TỔNG QUAN VỀ
TIẾN TRÌNH VĂN HỌC CÔNG GIÁO VIỆT NAM
***
Bùi Công Thuấn
Bài viết này trình bày tổng quan về tiến trình văn học Công giáo, từ đó chia sẻ với bạn đọc những vấn đề cần quan tâm.
Thừa hưởng thành quả nghiên cứu của những người đi trước, kết hợp với những gì tác giả quan sát được về đời sống văn học Công giáo, bài viết là một góc nhìn riêng về những vấn đề mà cho đến nay việc nghiên cứu Lịch sử Văn học Công giáo mới chỉ là những bước khởi đầu. “Góc nhìn riêng” có thể khám phá những giá trị độc đáo, song không tránh được những thiếu sót, nghiêng lệch chủ quan. Dù vậy, con đường phía trước vẫn mời gọi bước chân, đặc biệt, mời gọi sự dấn thân của các nhà nghiên cứu trẻ.
NỘI DUNG
Văn học nhìn theo tiến trình lịch sử:
Phần I: Thời kỳ gieo trồng đức tin
(văn học Công giáo thế kỷ 17,18,19)
Phần II: Thời kỳ khai mở văn học hiện đại
(đầu thế kỷ XX đến 1975)
Phần III: Thời kỳ hội nhập (từ 1975 đến nay)
Tổng quan
***
VĂN HỌC CÔNG GIÁO NHÌN THEO TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ
PHẦN I
“THỜI KỲ GIEO TRỒNG ĐỨC TIN”
(Văn học Công giáo thế kỷ 17, 18, 19)
Nhà nghiên cứu Lê Đình Bảng gọi văn học Công giáo thế kỷ 16-17 là “Chặng đường “Vỡ đất-gieo trồng”, và văn học Công giáo thế kỷ 18-19 là “Chặng đường đâm chồi nảy lộc”.
Ts Lm Đaminh Nguyễn Đức Thông thì phân chia thành văn học Chữ Nôm và văn học Chữ Quốc ngữ từ 1820 đến 2019[
[1]].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Vy Khanh không phân chia thời kỳ văn học Công giáo, song ông nhận xét: “Các thế kỷ XVII, XVIII, giới tu sĩ Công giáo đã viết chữ Nôm nhiều hơn chữ quốc ngữ thì từ nửa cuối thế kỷ XIX, các tác giả Thiên Chúa giáo đã là những người đầu tiên tiếp nhận những hình thức diễn tả văn hóa của Tây phương, họ đi những bước khởi đầu”[
[2]]
Tôi gọi văn học thế kỷ 17, 18, 19 là văn học “thời kỳ gieo trồng đức tin”, bởi nội dung và mục đích của văn học thời kỳ này là truyền giáo. Văn chương chỉ là phương tiện, là công cụ loan báo Tin Mừng. Majorica nói rõ việc soạn sách: “đã soạn và viết ra nhiều tác phẩm với mục tiêu cứu rỗi linh hồn”. Còn A. Rhodes soạn “Phép Giảng Tám Ngày cho kẻ muấn chịu phép rửa tội mà beào đạo thánh đức Chúa Blời”. Hình thức, ngôn ngữ, thể loại, thi pháp (chữ Hán, chữ Nôm, Lục bát, Song thất lục bát, thơ Đường luật) vẫn nằm trong thi pháp văn học trung đại Việt Nam (văn học dân tộc chịu ảnh hưởng văn học Trung Quốc).
Chỉ khi các tác phẩm văn học chữ Quốc ngữ viết theo hình thức văn học phương tây xuất hiện (nửa cuối thế kỷ 19 với Pétrus Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của Nguyễn Trọng Quản), lúc ấy văn học Công giáo mới chuyển sang thời kỳ mới, tôi gọi là Văn học“Văn học khai mở thời kỳ hiện đại”.
Các nhà nghiên cứu văn học Công giáo hầu như đã thống nhất về các khuôn mặt tiêu biểu của Văn học Công giáo của các thế kỳ 17, 18, và 19:
1.Girolamo Majorica (1691-1656): Maiorica đã soạn 48 tác phẩm chữ Nôm thuộc 4 thể loại: sách truyện hạnh thánh, phỏng tác kinh thánh, sách giảng thuyết, và sách giáo lý. Nhìn chung đây đều là văn xuôi (Wiki). Trong bức thư hàng năm cho năm 1637 (viết vào tháng tư năm 1638), Majorca cho biết:“Tuân lệnh bề trên, tôi đã soạn và viết ra nhiều tác phẩm với mục tiêu cứu rỗi linh hồn. Tôi đã viết tiểu sử thánh Phanxicô Xaviê và cũng có viết về phép lạ mà thánh Phanxicô đã ban ở Napoli, cho thánh tử đạo Marcello. Tôi đã viết tiểu sử của Á thánh Phanxicô Borgea, của các bà thánh Engrace, Olaya và 7 vị thánh khác…”(dẫn theo Georg Schurhammer)[
[3]]