Dân tộc Ba Na là một trong những dân tộc thiểu số đông dân cư nhất tại Tây Nguyên. Địa bàn cư trú của họ khá rộng ở nam Kon Tum, bắc Gia Lai và phía tây tỉnh Bình Định. Ở tỉnh Kon Tum, dân tộc Ba Na gồm 2 nhánh là Ba Na Rơ Ngao và Ba Na Jơ Lâng, đứng thứ hai về dân số trong 6 dân tộc thiểu số bản địa, có nhiều đóng góp trong quá trình hình thành, phát triển và trong công cuộc xây dựng, bảo vệ quê hương Kon Tum ngày càng giàu đẹp.
Theo các nhà nhân chủng học thì người Ba Na có nguồn gốc thuộc chủng Indonesia, tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ me. Vì sống rải rác trên một địa bàn rộng lớn nên phong tục, tập quán của người Ba Na có thay đổi ít nhiều theo phong thổ từng địa phương và sự giao lưu với xã hội bên ngoài. Song những biến đổi đó không rõ rệt. Về tiếng nói, các nhánh người Ba Na cùng một thứ tiếng, tuy cũng có sự thay đổi ít nhiều tùy theo địa phương. Về chữ viết, người Ba Na là dân tộc thiểu số đầu tiên ở Tây Nguyên biết đọc, biết viết và biết làm tính. Năm 1861, chữ Ba Na viết theo mẫu tự la tinh như chữ quốc ngữ được đặt ra và tồn tại, phát triển cho đến ngày nay.
Người Ba Na có nước da ngăm đen, ngày xưa đàn ông để tóc dài tới cổ, ngày nay thì tóc ngắn hơn. Người Ba Na có bản tính mộc mạc, chất phác, hiền lành và hiếu khác, họ coi người Kinh là anh em nên đối đãi rất thân thiết. Tuy nhiên, người Ba Na không muốn khách lạ đụng chạm đến phong tục, tập quán kiêng cữ của họ. Muốn vào thăm một nhà nào thì phải được chủ nhân ưng thuận; kỵ nhất là xông thẳng vào bếp núc (một số người Ba Na thờ thần ở bếp). Về phục trang, người Ba Na ăn mặc rất giản dị, đàn ông thường ở trần hay mặc áo cánh tay cụt, cổ xẻ để hở ngực, đóng khố. Đàn bà mặc áo cộc tay, ngực kín, váy dài. Ngoài ra họ còn có một tấm vải quấn quanh lưng dùng để địu con nhỏ lúc lên rẫy hoặc về phố chợ. Ở những vùng sâu, vùng xa, đàn ông chỉ mang khố, đàn bà quấn yêng (xiêm), còn mình thì để trần. Vải do người Ba Na dệt bằng vải bông, màu đen chàm và trắng, kẻ viền màu đỏ gạch, hoa văn mộc mạc đơn sơ. Đàn bà, đàn ông đều thích đeo những vòng bằng bạc, bằng đồng hoặc những chuỗi hạt cườm. Về ăn uống, người Ba Na cũng như các tộc người khác thích ăn bốc, không dùng đũa. Thường một ngày họ ăn hai bữa cơm: buổi sáng, trước lúc đi rẫy hoặc xuống phố chợ; bữa tối ăn vào lúc tối mịt trước khi đi ngủ. Họ thường nấu cơm buổi sáng, để dành ăn cả ngày. Cơm hay thức ăn nấu trong những cái nồi đất miệng loe ra, không có nắp đậy, không có quai; thường đậy nồi bằng lá chuối. Ngày nay, họ thường dùng nồi đồng hay xoong nhôm mua của người Kinh để nấu ăn. Rượu là thức uống rất được ưa thích, phổ biến nhất là rượu cần, rượu cần được ủ bằng cơm gạo nếp hay tẻ, bằng bắp, củ mì, bo bo. Nam nữ Ba Na đều hút thuốc lá. Thuốc được trồng tại chỗ. Sau khi thu hoạch có thể thái thành sợi nhỏ và dùng tẩu để hút hoặc để nguyên lá khô cuốn thành điếu để hút. Tẩu thuốc được làm từ thân tre, nứa hoặc bằng gỗ và được tạo dáng đẹp. Người Ba Na canh tác theo hình thức phát, đốt, chọc, tỉa cổ truyền. Bộ công cụ sản xuất rất đơn giản nhưng thích hợp và công hiệu. Dùng dao rựa hoặc xà gạc để phát, chặt những cành cây không lớn lắm. Dùng rìu để đốn chặt cây to. Dùng cây gậy gỗ dài được đẽo nhọn một đầu, đốt qua lửa cho bớt bị xước, tăng độ cứng hoặc dùng gậy làm bằng cây le, đẽo vát móng lợn một đầu để chọc hốc khi trỉa hạt. Để làm rẫy, họ dùng dao chặt bỏ những mầm cây dại mọc lên từ những gốc cây sau khi phát rẫy; dùng cuốc và cái nạo để vạc cỏ mọc chen lẫn với cây trồng. Người Ba Na bắt cá bằng chài, lưới, vó, vợt, nơm. Họ dùng cả mũi lao để đâm cá, dùng nỏ để bắn cá, it khi họ dùng cần câu. Phụ nữ thường xúc cá nhỏ, tôm bằng rổ. Ở sông ĐăkBla, họ dùng thuyền độc mộc để đi lại trên mặt nước và đánh bắt cá. Đồ đựng cá thông dụng là giỏ đan bằng nan tre, nứa. Người phụ nữ Ba Na dùng chày, cối để giã thóc ra thành gạo, nhưng việc đẽo chày, khoét cối, đan nia là của đàn ông. Một vật dụng quen thuộc gắn bó với người Ba Na là chiếc gùi. Họ đeo gùi khi đi rẫy, thăm bà con hay ra phố thị. Gùi là một thứ đồ đựng và là phương tiện vận tải phổ biến.
Để phục vụ cho mục đích săn bắn hoặc tự vệ, người Ba Na có dụng cụ săn bắn và vũ khí truyền thống khá phong phú. Để bắt chim và dơi họ dùng lưới chụp, dùng nhựa dính. Để săn thú họ dùng lao, giáo, mác, nỏ, thò, xà gạc…; biết đào hầm, cắm chông, giăng thò, đặt bẫy để bắt thú. Tất cả đều được sáng tạo từ những vật liệu từ cây cối trong rừng, tuy kỹ thuật không phức tạp nhưng hiệu quả. Về nhà ở, người Ba Na thích ở kiểu nhà sàn hình chữ nhật hay hình vuông. Nhiều tiểu gia đình cùng họ tộc sống chung trong một ngôi nhà dài. Tuy sống chung, nhưng họ làm ăn và có của cải riêng. Vào những nhà này, sàn có nhiều bếp lửa, mỗi bếp là một gia đình. Mặt trước cửa nhà người Ba Na thường hướng về phía nào thuận tiện, có nhiều người qua lại. Đối với những nhà nhỏ, cửa trổ về phía hai mặt nhỏ của nhà. Với những ngôi nhà dài, cửa trổ về phía hông lớn của nhà. Trước cửa ra vào, sàn nhà nhô ra thành một hành lang, gọi là “Pra” để tránh mưa nắng trong lúc giã gạo, đan gùi… Sàn nhà người Ba Na thường lát bằng ván gỗ hoặc lát bằng tre đan. Phên vách bằng nứa hoặc tre đan, cột với lạt mây. Khi ngủ thì nằm ngay giữa sàn bên cạnh bếp lửa; tiếp khách cũng bên bếp lửa, ngồi trên những chiếc ghế tròn, thấp đan bằng mây hay căng bằng da thú. Trong nhà có rất nhiều ghè rượu, sắp thành hàng dài ở phía giữa nhà. Bên cạnh đó là những chiếc gùi đủ cỡ. Trên vách phên hay phía mái nhà treo những dụng cụ săn bắn, những chiếc lờ đánh cá. Muốn lên nhà người Ba Na phải leo lên cầu thang làm bằng thân cây đẽo thành từng bậc theo hình dáng cổ truyền. Ngày xưa, do làng sống cạnh rừng, có nhiều thú dữ, ban đêm họ rút cầu thang lên để tránh thú dữ leo vào nhà, ban ngày lại thả xuống. Trên đây là vài nét về nguồn gốc và đời sống văn hóa vật chất của tộc người Ba Na ở tỉnh Kon Tum. Minh Triết (sưu tầm) |
Thứ Hai, 6 tháng 2, 2012
Tìm hiểu về nguồn gốc và đời sống văn hóa vật chất của tộc người Ba Na ở Kon Tum
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét