Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2012

NHÀ SÀN CỦA NGƯỜI BA-NA Ở KON TUM


Nhà sàn của người Ba Na Kon Tum dựng cao, thẳng cách mặt đất từ 1 đến 2 mét. Sàn nhà được làm bằng tre, nứa, lồ ô... hoặc bằng các tấm ván gỗ. Người ta thường chọn gỗ dầu để làm ván lát sàn bởi gỗ dầu vừa thẳng, vừa chắc.


Ảnh minh họa: N.Đang.
Khác hẳn với nhà người Kinh thường kéo dài về phía sau, nhà sàn người Ba Na có hình chữ nhật, dài trung bình khoảng 10 mét. Mỗi căn nhà gồm 12 cây cột chia mỗi bên 6 cây. Người ta thường chọn cây cà chít làm cột nhà vì nó có vị đắng và cứng chắc, ít bị mối ăn. Cột nhà được chôn sâu dưới đất khoảng 1 mét. Ngày nay, người ta chỉ việc tán đế rồi dựng cột. Làm theo kiểu này thì tốt hơn bởi cây cột không bị mối gặm và không bị lún xuống về mùa mưa. Cột nhà được đẽo tròn, gốc có đường kính độ 30cm và ngọn khoảng 20cm được đục một lỗ hình vuông để kết nối giữa cột và cây trính thượng. Cách trính thượng khoảng 2m là trính hạ. Trính thượng và trính hạ được đẽo thành khối hình chữ nhật. Hai cây đà được gác lên hai hàng trên đầu cây cột. Ở chính giữa trính thượng có một trụ lỏng để chống đỡ đòn giông. Các rui gác lên, đòn giông xưa kia người ta dùng các loại cây tròn thẳng, dài và cứng chắc. Ngày nay, người ta dùng cây xẻ vuông hoặc hình chữ nhật với kích thước 5cm x 5cm hoặc 4cm x 6cm. Cây mè chọn từ cây tre hoặc lồ ô chẻ ra. 
Một ngôi nhà sàn bao giờ cũng có hai mái chính với hai mái phụ ở hai đầu gọi là chái. Nhà có 6 gian, nhưng chỉ một gian đầu cùng hoặc gian cuối có vách ngăn phòng dành cho cha mẹ. Người Ba Na có tập quán xây nhà theo hướng nam, cửa chính ngay ở gian giữa và cất thêm một cái nhà chồ gọi là hnam pra, nhìn từ trên xuống ta tưởng như hình chữ T khổng lồ. Nhà chồ hnam pra cũng có hai mái lợp bằng tranh hoặc ngói. Xưa kia lò gạch ngói còn ít sản phẩm chưa đủ dùng, bà con phải lợp bằng tranh. Cách đánh tranh không dễ dàng. Cần phải biết chọn loại tranh tốt. Đó là tranh to, dài và dĩ nhiên là phải tranh già mới bền chắc. Khi cắt tranh, tay phải khéo léo cắt cho bằng và chải sạch các cỏ rác rồi cẩn thận bó thành bó nhỏ. Nhiều bó nhỏ bó lại bó thành bó to. Khi đánh tranh phải đánh từng tấm dài khoảng 1mét, dùng hai thanh cây le chẻ đôi kẹp lại dùng dây lạt mềm, dẻo buộc chặt rồi lợp. Người ta dùng dây mây hoặc các loại dây rừng khác để buộc dây rui, mè và các loại cây khác. Sàn nhà chồ làmbằng gỗ ván to, dày. Đó là nơi dành cho phụ nữ giã gạo vào những buổi sáng sớm hoặc buổi chiều tối đi làm về. Nhà chồcũng là nơi gia đình ra ngồi chơi hóng mát trong những đêm hè nóng nực. Nhà chồ mát mẻ là nhờ không có vách như nhà chính. Vách nhà chính thường đan bằng nứa hoặc lồ ô. Có khi vách lại được trét bằng đất trộn với rơm.
 
Để bước lên nhà chồ người ta bắc một chiếc cầu thang bằng gỗ hương, trắc cao to từ đất lên. Người khách quen hay lạ từ làng xa đến thăm sẽ dừng chân lại ở cầu thang, rồi cất tiếng hỏi chủ nhà:
 
- Nhà có kiêng cữ gì không ạ?
 
Câu hỏi ấy như một lời chào và là ngôn ngữ tế nhị, xin phép để được vào nhà. Đây là tập tục của đồng bào vì trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày có nhiều kiêng cữ, buộc mọi người phải ý thức tôn trọng. Người chủ nhà có quyền trong việc từ chối hay chấp nhận tiếp đón khách. Nếu có kiêng cữ thì chủ nhà chỉ có thể tiếp ngoài sân và có lời xin lỗi khách. Trường hợp không có vấn đề trở ngại, chủ nhà sẽ niềm nở tiếp đón.
 
Gian nhà giữa dành tiếp khách. Đối với khách quý, chủ nhà trải chiếc chiếu mới, mời khách ngồi và mang một bầu nước đầy, mời khách uống. Bên cạnh đó, một bếp lửa để cho khách sưởi ấm khi gặp những ngày giá lạnh.
 
Người Ba Na có ba, bốn thế hệ sống chung trong một ngôi nhà sàn, dài cả mấy mươi mét (vậy mới có từ “nhà dài”). Người Ba Na khi lập gia đình một thời gian sống bên cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ (gọi là để trả ơn cha mẹ), cặp vợ chồng trẻ có thể tách ra thàng lập thành hộ riêng, song vẫn trong căn nhà ấy chỉ khác là đặt thêm bếp nấu.
 
Khi có điều kiện và với sự hỗ trợ của hai bên cha mẹ, cặp vợ chồng trẻ có thể xây dựng cho mình một ngôi nhà mới. Việc tạo dựng một ngôi nhà là một công việc lớn, cần nhờ đến nhiều công sức của cộng đồng, vì thế người ta phải biết lựa chọn thời điểm thuận lợi. Thường thường, vào những ngày tháng cuối năm, khi công việc đồng áng, nương rẫy đã xong, dân làng có thời gian thảnh thơi, người ta hay nghĩ đến việc xây dựng một ngôi nhà mới. Lúc dựng nhà mới hay khi dỡ nhà cũ để sửa chữa lại, dưới sự vận động của Bok Kră pơlơi ( già làng), dân làng đoàn kết, chung sức chung lòng, tương trợ giúp đỡ; dù chưa kịp lợp mái, dựng vách, song chủ nhà vẫn tiến hành tổ chức pơ dâng hnam tức là lễ dựng nhà. Chủ nhà thịt một con heo. Bà con trong làng mỗi người mang đến một ghè rượu nhỏ cùng chia vui. Khi ăn uống đã no say, đội cồng chiêng được nổi lên làm cho cuộc vui nhân lên  gấp bội. Những ngày tiếp theo dân làng tiếp tục giúp gia chủ dọn về ở cũng là ngày lễ khánh thành nhà mới, người Ba Na gọi là: “et hơtok hnam nao” (uống lên nhà mới). Cả dân làng đã góp công sức đều được mời đến dự tiệc mừng tân gia. Mỗi người không quên mang theo ghè rượu nhỏ để góp vui. Nhân dịp này, chủ nhà thịt một con bò đãi dân làng bữa cơm thân mật.Gia chủ và thân nhân lần lượt được mời uống và nhận được những lời cầu chúc tốt đẹp. Mọi người mời nhau ăn uống thoải mái, no say và vui vẻ.
 
Bắt đầu từ nay, vợ chồng chính thức sống cuộc đời tự lập riêng. Bà con dân làng công nhận họ là thành viên của làng, có đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi như bao gia đình khác.
 
A Jar (St)



(CTTĐTTKT)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét