Ngày 02/11/2017 vừa qua, Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, Tòa Giám mục Kon Tum đã tiến hành chuyển di cốt của cố linh mục Phaolô Lê Đình Ban từ Nhà thờ Phú Thọ (hạt Pleiku) về Nhà Nhà nguyện Chủng viện Thừa sai Kontum.
Thánh Lễ (nhì) đồng tế cầu các tín hữu đã qua đời và cho cha cố Phaolô, do Đức Giám mục Giáo phận Kon Tum chủ sự lúc 10g00 sáng ngày 02/11/2017 tại Nhà Nguyện Chủng viện, với sự hiện diện đồng tế của Cha Phêrô Nguyễn Vân Đông, tổng đại diện và Cha Phêrô Nguyễn Đình Lộc, phụ trách đào tạo Giáo phu.
Trong thánh lễ còn có sự hiện diện của qúy Nữ tu các hội dòng, quý Giáo phu và giáo dân một số nơi cha cố Phaolô từng phục vụ.
ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ CỐ LINH MỤC PHAOLÔ LÊ ĐÌNH BAN
LINH MỤC GIÁO PHẬN KON TUM
Cha Phaolô Lê Đình Ban (1881-1945)
·
Sinh : 1881
·
Quê
quán: Suối Nổ, Bình Định
·
Giáo
phận : Đông Đàng Trong (Qui Nhơn)
·
Linh
mục : 25/01/1911
·
Lên
Kontum : 1914
·
Tên
Thượng : Bok Ban
·
Địa
sở phục vụ - Năm phục vụ :
-Phó Rơhai (Tân Hương) : 1914
-Hàmong : 1914-1920
-Plei Jơdrập : 1915-1918
-Pơ-o : 1930
-Pơ-o và Phú Thọ : 1933-1945
·
Qua
đời : 14/02/1945 – Tại : Gx. Phú Thọ.
Cha Phaolô Lê Đình Ban sinh ra
tại họ đạo Suối Nổ, thuộc địa sở Nhà Đá, tỉnh Bình Định, giáo phận Đông Đàng
Trong (Qui Nhơn) vào khoảng năm 1881. Cha mẹ ngài đạo đức, kinh tế gia đình đủ ăn đủ
mặc. Nhà đông anh em, ngài thứ tám, nên cũng thường được gọi là “Cha Tám”.
Trẻ Phaolô này ngay từ còn nhỏ đã
tỏ ra ngoan đạo và có ý chí, nên cha sở đã bàn với cha mẹ gởi ngài vào Chủng
viện Làng Sông (Qui Nhơn). Từ đó, trải qua tiểu chủng viện rồi đại chủng viện,
thầy Phaolô chuyên chăm học hành và tu luyện nhân đức. Tính nết ngài thật thà
ngay thẳng, hiền lành vui vẻ, nhất là với anh em đồng sự, ngài hằng kính trọng
mến yêu. Ngài rất bền chí, can đảm, gặp khó khăn không ngã lòng, được may mắn
không cậy tài tự đắc.
Mãn khoá đại chủng viện, ngài
được phong chức linh mục vào ngày 25/01/1911 [1]. Trước hết, Đức Cha sai ngài
vào Phú Yên, làm phó sở Hoà Châu gần 3 năm.
Đến cuối năm 1914, Thế chiến I
bùng nổ, các cha thừa sai người Pháp bị động viên đi lính, nên nhiều nơi thiếu
chủ chăn, nhất là Kontum chịu thiệt thòi thiếu thốn hơn hết, vì giáo dân chưa
đông, đức tin còn non yếu mà nhiều nơi không có linh mục coi sóc. Lúc đó cha Bề
trên Kemlin (Văn) khẩn khoản xin Đức Cha cho thêm linh mục đến vùng truyền giáo
Kontum.
Sau ít lâu suy tính, Đức Cha cử
hai linh mục là cha Gioan Baotixita Phan
và Phaolô Ban – hai linh mục có đức tính vâng lời, có lòng can đảm, chịu khó và
quí trọng việc tông đồ, lên giúp địa phận Kontum. Lúc đó ai cũng sợ đi Kon Tum,
vì từ Qui Nhơn đến Kontum chưa có đường giao thông bằng xe cộ. Người ta phải
lội suối trèo đèo, vượt qua nhiều nơi hiểm trở, ngủ nghỉ giữa rừng rậm núi cao,
mất nửa tháng hay hơn nữa mới tới nơi, chưa nói đến muỗi đốt, khí hậu độc hại
và người bản thổ khác phong tục tập quán. Tuy vậy, khi nhận được thơ Đức Cha
sai lên Kontum, cha Phaolô Ban vui vẻ vâng lời, sẵn sàng hăng hái lên đường.
Lên đến Kontum, Bề trên để ngài ở
Rơhai (Gò Mít - Tân Hương ngày nay) học tiếng Thượng. Vừa giúp cha Alberty (cố
Hiền) tại Rơhai, ngài lại phải đi phụ trách nhiều nơi khác, như Kon Sơmluh,
Hàmong…
Từ 1915 – 1918: Bề trên cử ngài
đến phụ trách địa sở Plei Jơdrập. Năm 1916, ngài lập được một họ người Kinh gần
Plei Jơdrập là Ngô Thạnh (Ngô Thạnh ban đầu gọi là Tân Thạnh, đến 1920 mới đổi
là Ngô Thạnh).
Cuối năm 1916, Bề trên lại giao
địa sở Hàmòng cho ngài. Hàmong lúc đó các làng bỏ đạo gần hết, nhà thờ và phòng
ở tại sở chính (Hàmong Kơtu) hiu quạnh vắng vẻ, hư nát vì đã lâu không có linh
mục coi sóc. Chẳng bao lâu, vì lòng sốt mến và công lao khó nhọc, ngài dần dần
mở lòng cho các làng ăn năn trở lại. Ngài kiếm chỗ cao ráo dựng nhà thờ, nhà xứ
lợp ngói rộng rãi khang trang. Người Thượng hay có tập tục “chạy làng”, nên
ngài cũng lo lập họ người Kinh, cho có người đọc kinh dâng lễ hôm mai và lo tập
làm ăn có ý cho người Thượng bắt chước theo. Ngài xin Bề trên trưng đất và lo
giúp lập sở trồng cà phê chỗ rừng già gần Hàmong, mục đích tạo thêm huê lợi
giúp Nhà Chung (Toà Giám Mục).
Sau nhiều năm dày công tạo lập
vun xén nơi địa sở Hàmong, đến năm 1933, Bề trên đổi ngài qua địa sở Pơo (La
Sơn). Lúc này ngài đã có tuổi và phải
rời xa nơi gắn bó nhiều năm, nhưng ngài vẫn vui vẻ, khiêm tốn vâng lời Bề trên,
không ngại ngùng luyến tiếc!
Vừa đến địa sở mới, ngài bắt tay
làm việc: lo lắng phần hồn phần xác cho bổn đạo. Ngài tiếp nối công việc của
cha sở trước là cha Nicolas (Cận), lo giúp cho người ta làm thêm ruộng rẫy và mở
rộng vườn cà phê. Ngài đã xin lập Hội Chức Việc, để lo cho quý Câu Biện trong
Giáo phận được thống nhất và đoàn kết mà lo việc đạo. Là Bề trên tiên khởi phụ
trách Hội Chức Việc Kon Tum, ngài xin mở tuần cấm phòng chung cho quý chức, và lo tổ chức lập một tờ báo riêng: Nguyệt san
“Chức Dịch Thơ Tín”, nguyệt san của Hội Chức Việc Gp Kon Tum, vào năm 1933.
Ngài vừa là chủ bút vừa là biên tập, vừa viết bài đều đặn in trong nguyệt san,
vừa tổ chức in ấn phát hành, với một vài cha cộng tác như cha Simon Thiệt (Kontum),
cha Phêrô Chước (Pleiku), cha Phêrô Cơ (Kontum), cha Antôn Thận (Kontum)…Ngài
có lòng say mê tìm hiểu lịch sử truyền giáo Kon Tum, với nhiều bài khảo cứu giá
trị như ta thấy trong “Chức Dịch Thơ Tín”. Trong thời gian này, ngài soạn cuốn
lịch sử “Mở Đạo Kontum”, cùng với cha Simon Thiệt, cuốn sách đã được Đức Cha
Jannin (Phước) chuẩn nhận vào ngày 10/02/1933, và nhà in Qui Nhơn in vào tháng
05/1933. Đến tháng 11/1937, vì lý do sức khoẻ, việc quản lý nguyệt san “Chức
Dịch Thơ Tín” được trao lại cho cha Simon Nguyễn Thành Thiệt. Nhưng vì tình thế
biến đổi nên về sau mọi việc đều phải ngừng trễ.
Vì Pơo thời đó là một địa sở rộng
lớn, gồm cả vùng Bàu Cạn, Đăk Bệt, và nhiều họ đạo dọc theo quốc lộ 14 kéo dài
cho đến tận An Khê, (và cả Đăk Lăk ngày nay thuộc Buôn Ma Thuột), nên để thuận
tiện hơn, vào năm 1938, ngài xin dời sở chính ra Môn Yang (Phú Thọ sau này) và
đã được Đức Cha chấp thuận. Tại Môn Yang (Phú Thọ), trước hết ngài lo xây cất
nhà xứ khá rộng rãi chắc chắn, và đã trù liệu cất nhà thờ giáo xứ cho xứng
đáng, nhưng vì tình thế bất an nên phải tạm ngừng công việc. Ngài đã lo dẫn
thuỷ nhập điền cho tiện việc cày cấy, vì tại Mong Iang nhờ cha Nicolas đã trưng
ruộng đất cho Nhà Chung (TGM) nhiều, nhưng vì thiếu nước, nên phải bỏ hoang,
nay nhờ ngài khai thuỷ nên có thể cày gieo được gần hết.
Sau nhiều năm lao tác trên cánh
đồng truyền giáo Tây Nguyên, lại mang trong mình chứng bệnh đường (diabette) -
chính ngài rất hiểu biết về bệnh tình nên hằng lo dọn mình luôn, sẵn sàng vui
vẻ chấp nhận. Vào thứ tư Lễ Tro ngày 14/02/1945, Chúa đã gọi ngài vào chốn nghỉ
an đời đời, với 34 năm linh mục (1911 – 1945). Xác ngài an táng tại sở Môn
Yang, sau được cải táng nằm trong khuôn viên nhà thờ Phú Thọ tại đài Đức Mẹ.
Ngày 02/11/2017, Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, Tòa Giám mục Kon Tum đã tiến hành chuyển di cốt của ngài từ Nhà thờ Phú Thọ (hạt Pleiku) về Nhà Nhà nguyện Chủng viện
Thừa sai Kontum, đoàn tụ cùng quý Đức Cha, quý Cha trong giáo phận đã qua đời hiện tro cốt đang được đặt ở đó.
Chúng ta cùng
cầu xin cho linh hồn Cha Phaolô Ban được hưởng phúc Quê Trời, cùng giúp lời cầu
nguyện cho công cuộc truyền giáo trong Giáo phận chúng ta.
Phêrô Lê Minh Sơn
01/10/2017
______________________
Tài liệu tham khảo:
- “CHA PHAO-LỒ BAN”, Echos de la
Mission tháng 2/1947, trang 5.
- Echos các năm liên hệ, các giáo
xứ liên hệ.
- Nguyệt san “Chức dịch thơ tín”,
địa phận Kon Tum.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét