Tư liệu mới về Hàn Mặc Tử
VỀ NGUỒN THƠ VĂN HÀN MẶC TỬ
NGUYỄN HỮU SƠN sưu tập và giới thiệu
Thi sĩ Hàn Mặc Tử (1912-1940), còn có các bút danh Hàn Mạc Tử, Minh Duệ Thị, P.T, Phong Trần, L.T, Lệ Thanh, Lệ Thanh nữ sĩ, Lệ Giang, Sông Lệ, Mộng Cầm, Trật Sên, Cụt Hứng, Foong Tchan, Anh Hoa, Trọng Minh, Tinh Nhơn, Cô Đài Trang, Cô Bạch Bình Giang…; từng cộng tác với các báo Tiếng dân, Phụ nữ tân văn, Thực nghiệp dân báo, Sài Gòn, Tân thời, Người mới, Đông Dương tuần báo (?), Ngày nay, Tin tức, Công luận, Trong khuê phòng, Đông Á tân văn, Impartial, Opinion, La Lutte… Theo quan sát của chúng tôi, công trình sưu tập văn bản học tốt nhất về Hàn tính đến nay chính là Hàn Mặc Tử – Tác phẩm, phê bình và tưởng niệm (Tái bản. NXB Văn học, 2002; 528 trang) của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ (PCĐ, 1933-2007). Trong sách Thơ Hàn Mặc Tử (NXB Văn hóa – Thông tin, 2001; 342 trang), soạn giả Mã Giang Lân (MGL) dựa vào thống kê của Phạm Đán Bình (Tin nhà, Paris, số 2-1991) cho biết thêm nhan đề 18 mục bài viết của Hàn, đồng thời xác định “thơ Hàn chúng ta mới được đọc chừng 150 bài, còn thất lạc đâu đó” và kỳ vọng: “Cái phần chìm khuất kia hy vọng sẽ dần dần được kiếm tìm, bồi đắp, sung mãn”…
Trong quá trình sưu tập tài liệu cho công trình “Người đương thời Thơ mới bàn về Thơ mới” và “Di sản văn học Quốc ngữ đến 1975”, chúng tôi vừa tìm thêm được số lượng lớn tác phẩm của Hàn in trên báo Công luận (CL, Sài Gòn, 1916-1939) ngoài số đã từng công bố. So với dẫn giải trong sách Thơ Hàn Mặc Tử nêu trên, trước hết cần chỉnh lý, chuẩn hóa nhan đề một số bài viết của Hàn: không phải Những câu hát phong tình của cổ Ai Cập mà là Những câu hát phong tình của nước cổ Ai Cập; không phải Khái niệm về thi ca (làm thơ cần phải luyện khí) mà là Khái niệm về thi ca (Thơ có mấy lối? Làm thơ cần phải luyện khí); không phải Đi nghe ông Đinh Bá Kha diễn thuyết về nhân thế Chỉ Cảnh (fin de la vie humaine) ở học xá Pháp Việt Quy Nhơn mà là Đi nghe ông Đinh Bá Kha diễn thuyết về vấn đề triết học “Nhân thế chỉ cảnh” ở Học xá Pháp – Việt Quy Nhơn… Đồng thời với việc cung cấp đầy đủ văn bản gốc những bài báo trước nay mới chỉ biết nhan đề, nhân đây chúng tôi giới thiệu thêm một số tác phẩm văn xuôi khác “mới toe” của Hàn vừa tìm lại được: Mười lăm phút nói chuyện với bà Lê Thành Tường, cựu chủ nhiệm báo Phụ nữ Tân tiến ở Huế (Trung Kỳ) (CL, số 6216, ra ngày 4-4-1933); Khảo về lịch sử Nhật Bản từ nguyên thỉ đến hiện thời (CL, từ số 6417, ra ngày 10+11-12-1933); Chết (CL, số 6693, ngày 22-11-1934); Rousseau, tiểu thuyết gia (CL, số 6760, ra ngày 16-2-1935); Thử ngó qua nước Ái Nhĩ Lan: một nhà thi hào được phần thưởng Nobel năm 1924 (CL, số 6778, ra ngày 9-3-1935), v.v… Tất cả những tác phẩm trên góp phần cho phép chúng ta hình dung đầy đủ, sâu sắc, chuẩn mực, toàn diện hơn nữa chân dung con người, tư tưởng và sự nghiệp văn chương Hàn Mặc Tử.
Đi vào so sánh văn bản những bài thơ của Hàn từng được công bố trên các sách của PCĐ và MGL thì thấy có mấy sự sai khác. Ở bài Đêm khuya tự tình với sông Hương, cả hai sách đều sai hai chữ trong hai câu thơ: Trong thành ngự chết con đen, bản gốc in chữ ngự kia là ngũ, đọc đúng là: Trong thành ngủ chết con đen; câu: Chiếc thuyền vô định tạt vào bến mê, bản gốc là: Chiếc thuyền vô định tạc vào bến mê (CL, số 6772, ra ngày 2-3-1935, tr.5). Với bài Tuồng đời, PCĐ sai hai chữ quan trọng ở câu thơ thứ nhất: Tuồng đời lặng lẽ vẽ nên phông, đúng phải là: Tuồng đời lăng lố vẽ nên phông(CL, số 6790, ra ngày 23-3-1935, tr.5). Đặc biệt với bài thơ Sống khổ và phấn đấu dài 27 câu, sách PCĐ chỉ in 8 câu (trong đó sai chữ ở câu 8), thiếu mất 19 câu (CL, số6802, ra ngày 6-4-1935, tr.5.)…
Điều quan trọng hơn, chúng tôi đã phát hiện, sưu tập thêm được trên năm chục bài thơ của Hàn Mặc Tử sáng tác và in trên báo Công luận trong khoảng thời gian 1932-1939. Hình thức nghệ thuật những bài thơ này khá phong phú, phần lớn làm theo thể Đường luật, một số bài theo lối thơ tự do và các thể hồi văn, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn xen lục ngôn, thủ vĩ ngâm, song thanh, hát nói, từ khúc, lục bát, song thất lục bát… Về nội dung, phần nhiều các bài thơ hướng tới các giá trị nhân văn, xướng họa với chí sĩ Phan Bội Châu và bạn bè (Quách Tấn, Tùng Ngâm, Ngọc Hồ, Trần Bình Lộc, các bạn ở Phú Mỹ – Bình Định và cả những tứ thơ Gửi cho người không quen biết, Phút mơ màng, Tương tư, Canh khuya nhớ bạn)…; mở rộng lối thơ du ký, đề vịnh thắng cảnh non sông đất nước (xứ Huế, Phan Thiết, chùa Ông Núi – Bình Định), thú chơi tao nhã và vẻ đẹp bốn mùa (Cầm, Kỳ, Thi, Tửu; Xuân, Hạ, Thu, Đông; Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt)…; tiếp nối dòng thơ hiện thực, phản ánh tâm trạng thi nhân trước hiện tình xã hội (với các bài Đêm khuya ở nhà quê, Làm ruộng tự thuật, Than nghèo, Đau mới dậy, Đóng tuồng, Sống khổ và phấn đấu), v.v… Theo cách đọc “liên văn bản” có thể thấy thơ Hàn thực sự tiêu biểu cho quá trình hiện đại hóa, tiếp nối giữa hiện tượng sử dụng lối thơ truyền thống với việc gia tăng vai trò nguồn cảm xúc mới; giữa việc khai thác hệ thống chủ đề, đề tài quen thuộc với khả năng bộc lộ tiếng nói của chủ thể trữ tình cá nhân kiểu mới. Đặt trong tương quan so sánh đồng đại có thể nhận ra tứ thơ Gởi cho ai, Nhắn ai, Gởi cho người không quen biết của Hàn tương đồng với những Thư đưa người tình nhân không quen biết, Thư trách người tình nhân không quen biết, Thư lại trách người tình nhân không quen biết của Tản Đà, rồi tương đồng với những Nhắn nhủ, Nhắn ai, Lại nhắn ai của Quách Tấn, v.v…
Nói riêng trong phạm vi thơ Hàn Mặc Tử, dễ thấy nhiều câu thơ, ý thơ trong số những bài mới phát hiện này có sự giao thoa, gặp gỡ, tiếp nối với nhiều tứ thơ đã biết để làm nên phong cách độc đáo họ Hàn.
Đọc câu thơ Ô hay, người thế toàn yêu quái (Họa – CL, số 6671, ra ngày 22-10-1934, tr.3) lại nhớ ý thơ: Ô hay, người ngọc biến ra hơi (Mơ hoa); đọc câu thơ Dưới trăng đi lững thững/ Bóng dọi ngắm thành đôi (Dưới trăng - CL, số 6671, ngày 22-10-1934, tr.3) lại nhớ: Ai đi lẳng lặng trên làn nước/ Với lại ai ngồi khít cạnh tôi (Cô liêu); đọc câu thơ Gió đông mơn trớn nhẹ (Hái hoa - CL, số 6671, ngày 22-10-1934, tr.3) lại nhớ: Gió say lướt mướt trong màu sáng (Huyền ảo); Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi (Bẽn lẽn); đọc câu thơ Em khoe sắc đẹp bên cành lả/ Dáng điệu mơ màng vẻ thướt tha/ Đón cái xuân về vị tỉnh say/ Đỏ rần đôi má ửng hây hây (Yêu để sống – CL, số 6802, ngày 6-4-1935, tr.3) lại nhớ những câu: Sương đẫm trăng lồng bóng thướt tha (Hoa cúc); Trăng bay lả tả ngả lên cành vàng (Rượt trăng); Từ khi đôi má đỏ hây hây/ Em tập thêu thùa, tập vá may… Những lượt thu về, em thấy xuân/ Trên đôi má nõn lại phai dần (Duyên muộn); Xuân em hơ hớ như đào non/ Chàng đã thương thương muốn kết hôn/ Từ ấy xuân em càng chín ửng (Mất duyên)…
Đến đây chúng tôi trân trọng giới thiệu 7 bài thơ mới phát hiện của Hàn (với các bút danh Hàn Mặc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần), trong đó có toàn văn bài Sống khổ và phấn đấu đã nêu trên.
*
CẢNH PHAN THIẾT TRONG NGÀY TUẦN DU
HÀN MẶC TỬ
Chớp bể mưa nguồn chuyện đã qua,
Rày xem Phan Thiết khác xưa xa.
Cây còi cỏ úa tuy xơ xác,
Tủi kết hoa treo cũng mới nhà.
Đón chúa phất phơ cờ đỏ tựu,
Nha quan lược bược áo xanh cà.
Thái bình chợt nhớ ngày Nghiêu Thuấn,
Ngày Thuấn Nghiêu xưa cũng thế à!
(Công luận, số 2587, ngày 26+27-2-1933)
NHÀN!
HÀN MẶC TỬ
Cổ nhơn hát: Vô sự tiểu thần tiên,
Trăng gió ấy nước non nầy thật hữu duyên.
Nước hồ sen thuyền lan bơi một lá,
Hái hoa sen đem về dâng cho ả.
Thú yên hà say tỉnh một đôi chung,
Chém lượng sóng nhớ đến khách anh hùng.
Phú Xích Bích ngâm nga hừng chí lạ,
Cầu thệ thủy mỹ nhân nào ngắm đó.
Quán thu phong còn hẹn gặp nhau kia,
Bước nhàn du chơi đã chán chê.
Vình nhớ lại mấy năm về trước,
Trời ghen ghét bắt làm cho được.
Hai bàn tay trắng trả nợ non sông,
Bây giờ đây lòng đã sạch lòng.
Túi thơ văn rờ lại thử còn bay mất,
Ờ ờ lưu lạc phong trần còn dính chặt.
Mở phăng ra đề vịnh một đôi chương,
Ngoảnh đầu xem: hoa ké ké, nguyệt chán chường.
Không lẽ thờ ơ thành phụ bạc,
Chưa hết công danh giả đò về Kiếm Các.
Ông Trần Đoàn mới thật tiêu dao,
Người nghiêm tử, khí tượng lại anh hào.
Giúp vực Hán sợi tơ còn để tiếng,
Không thèm vinh hoa, thích nhàn là sướng.
Danh lợi mà chi, phú quí ấy mà chi,
Bên hoa ngắm rượu, dưới nguyệt ngâm thi.
(Công luận, số 2587, ngày 26+27-2-1933)
ĐÊM KHUYA Ở NHÀ QUÊ
HÀN MẶC TỬ
Lều tranh lạnh lẽo mất canh thâu,
Lạnh cỏ cây trời lạnh đến đâu…
Hé cửa nhìn trăng trăng tái mặt,
Gài then thắp nến nến rơi châu.
Chiêm bao bóng lẩn Dao Trì động,
Mường tượng hồn chơi thệ thủy cầu.
Năm ngón đường tơ ngồi dậy bấm,
Gió quên than thở dế quên sầu.
(Công luận, số 2599, ngày 12+13-3-1933)
GỞI CHO NGƯỜI KHÔNG QUEN BIẾT
LỆ THANH
Tuy không quen biết bao giờ,
Mà trong thanh khí hững hờ sao đang.
Ra chi chọn đá thử vàng,
Ở trong thiên hạ ngang tàng mấy ai.
(Công luận, số 6766, ngày 23-2-1935)
PHÚT MƠ MÀNG
LỆ THANH
Đêm hôm qua,
Giấc mộng sa đà;
Anh nằm trông thấy bông hoa tơi bời.
Sóng lòng vơi vơi,
Nỗi lòng chơi vơi;
Buồn tình anh nhớ đến người năm xưa.
Xuân đang vừa,
Duyên lứa đang vừa;
Ước ao ao ước em chờ “vu qui”.
Ôi, thời gian đi…
Lỡ mất giai kỳ;
Gặp anh buổi ấy em liền thương ngay.
Không rượu mà say,
Rứa mà say;
Đôi ta hớn hở với ngày xuân sang.
Tích tịch tình tang,
Tình tình tang…
Ai hay ly biệt đoạn tràng từ đây.
Mịt mù nước mây.
(Công luận, số 6790, ngày 23-3-1935)
HÌNH ẢNH XƯA
PHONG TRẦN
Nắng chiều nay bặt tiếng xuân tiêu
Thôi, hát cùng em điệu hát chiều.
(Yến Lan)
Tung ánh sáng, đốt tan bầu lặng lẽ,
Xé màn đêm xe đến bóng Tiên Nga.
Ta cảm thấy ma thiêng trong quạnh quẽ,
Moi tim gan than khóc giữa bầu hoa.
*
Máu ngàn xưa phun rơi trên màn thắm,
Trong hư vô, diêu động mảnh tim sầu.
Ta rung rẩy giương lên tầm mắt sáng,
Tìm trong không bức ảnh nhạt từ lâu.
*
Cảnh rùng rợn phai tình trong mê sảng,
Với ma thiêng dần hiện giữa màn hoa.
Giây hư huyễn gieo ra từng mảnh đạn,
Muôn lạy ngươi, mau kíp hãy dang ra,
Muôn lạy ngươi, mau lặng khỏi tim ta.
*
Van ngươi thôi! Vụt tắt bóng điêu tàn,
Đừng chôn ta mê man trong hỗn trận.
Ma thiêng hỡi! Giấu đi tia hốt hoảng,
Để ta cam trơ trẽn với số phần,
Để ta cam trơ trẽn phận Phong Trần…
(Công luận, số 7794, ngày 2-9-1938)
SỐNG KHỔ VÀ PHẤN ĐẤU
HÀN MẶC TỬ
… Sao tôi thấy cuộc đời máu me lênh láng
Như bãi sa trường trong lúc hỗn loạn.
Sao tôi thấy dân chúng bị lầm than,
Dưới bóng mặt trời đầy rẫy hào quang.
Ngán thay! Cuộc đời sống khổ!
Nào non sông mưa mưa, gió gió,
Nào trời đất lơ láo, láo lơ.
Phủ màn mây ảm đạm, mịt mờ,
Như biến mất vào trong cõi mộng.
Kìa đại hải, kìa tràng giang ầm ỳ tiếng sóng,
Như bất bình tức tối đấng Cao xanh…
… Nào những ai tự phụ bực tài danh,
Trong cảnh huống càng nên phấn đấu.
Phải, phấn đấu dầu đường đầy những máu,
Cứ hùng cường, dũng liệt bước lên.
Đạp cho bằng trở lực của thiên nhiên,
Là những sự chướng gai thường thế lộ.
Hãy tự mình bền gan tiến thủ,
Chí không lay thì trở lực phải lung lay.
Rồi bao nhiêu nỗi thống khổ đắng cay,
Lần lần sẽ phẳng lì tiêu tán.
Rồi trời đất quang minh sáng láng,
Đem về cho làn không khí trong xanh.
Nỗi bất bình bên cạnh sẽ thanh thanh,
Làn sóng hận lặng trang trên bãi ải,
Hết ta thán cõi đời là bể khổ,
Phải vậy chăng hỏi khách tài tình?
(Công luận, số 6802, ngày 6-4-1935)
Nguồn: hoingovanchuong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét