TÁC ĐỘNG CỦA ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN ĐẾN ĐỊNH CƯ VÀ SINH HOẠT KINH TẾ TẠI KON TUM VÀO NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX
ThS. Hồ Thành Tâm
Đại học Quốc gia Hà Nội
Trong bất cứ cuộc di cư nào, việc lựa chọn địa bàn thích hợp (về khí hậu, thổ nhưỡng, thủy văn…) để định cư là công việc quan trọng hàng đầu. Bởi lẽ người di dân khi đến nơi cư trú mới, ngoài của cải vật chất mang đi, họ còn mang theo cả kinh nghiệm sản xuất, tập quán sinh hoạt, nếp sống… vốn được đúc rút qua quá trình sinh sống lâu dài tại cố hương, đến thực hành nơi vùng quê mới. Các cuộc chuyển cư do đó không bao giờ là sự đoạn tuyệt hoàn toàn với quá khứ. Cho nên, khi quan sát một điểm định cư mới nào, ta luôn có thể tìm thấy những sợi dây liên kết giữa cộng đồng tại chỗ với nơi mà họ đã rời đi. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải chú ý rằng, các kinh nghiệm, tập quán của vùng đất cũ được ươm trồng nơi quê hương mới, sẽ được cải biến ít nhiều để thích hợp với các điều kiện tự nhiên, xã hội tại đây.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, khu vực mà ngày nay là thành phố Kon Tum đã được các nhóm di dân[1] lựa chọn làm địa bàn cư trú mới. Nguyên nhân của các cuộc di cư này, mà một phần chủ yếu của nó là do chính sách cấm đạo của triều đình nhà Nguyễn, đã được bàn đến nhiều, nên chúng tôi sẽ không đề cập ở đây. Có nhiều lý do, cả tự nhiên lẫn con người, khiến vùng đất thành phố Kon Tum níu chân được các nhóm di dân chứ không phải vùng nào khác[2].
Về mặt tự nhiên, khu vực thành phố Kon Tum là vùng đồng bằng có dạng trũng trên nền phù sa cổ, nằm trong thung lũng các ngọn núi bao quanh thành phố[3]. Vì nằm trên nền phù sa cổ cho nên chất đất nơi đây khá thích hợp cho việc trồng trọt các loại cây nông nghiệp. Do nằm kẹp giữa hai con sông Đăk Bla ở phía Nam và Pôcô ở phía Tây (cùng thuộc hệ thống sông Sésan), lượng phù sa bồi đắp hàng năm của hai con sông này và lượng nước tưới khá dồi dào đủ để phát triển nông nghiệp[4]. Hơn nữa, vì bề mặt đồng bằng Đăk Bla có dạng trũng khiến nơi này trở thành một cái ao/hồ tự nhiên tuyệt vời tích chứa nước mưa, phục vụ nhu cầu người dân định cư[5]. Trong khi đó, khu vực phía Bắc tỉnh Gia Lai hiện nay (huyện Chư Pah) chủ yếu là loại đất đỏ vàng hoặc vùng Đăk Tô là đất xám bạc màu[6], không thích hợp cho trồng trọt và định cư lâu dài. Chính giáo sĩ P. Dourisboure cũng đã nhận ra những hạn chế về điều kiện thổ nhưỡng của khu vực này nên mới quyết định rời bỏ địa sở Kon Kơxâm để tiến lên vùng đồng bằng Đăk Bla[7]. Như vậy, xét về điều kiện đất đai, và quan trọng hơn, nguồn nước đủ để phục vụ đời sống, thì vùng đồng bằng Reungao như các giáo sĩ Pháp gọi, hay vùng thung lũng Kon Tum[8], chính là địa điểm lý tưởng để định cư.
Về mặt con người, các giáo sĩ Pháp, những người tiên phong trong việc khai phá vùng Kon Tum, ngay trong những ngày đầu xây dựng kế hoạch về một cơ sở truyền giáo trên Tây Nguyên, đã nhắm đến việc định cư tại vùng đồng bằng Đăk Bla. Mặc dù chỉ được nghe phong phanh về con sông Đăk Bla, nhưng vị linh mục Cuénot đã chỉ thị cho phái đoàn của Dourisboure: “Khi các Cha đến chỗ cách Kơ Lăng một vài ngày đường về hướng Tây, và nếu các Cha gặp được con sông mà người ta đã cho tôi biết, thì chắc các Cha sẽ tìm thấy vùng đồng bằng ở hai bên bờ sông, các Cha hãy hạ trại lưu trú ở đó, và hãy biết rằng các Cha đang ở trong vườn nho được giao phó cho các Cha chăm sóc vậy”[9]. Một điều rất rõ ràng trong kế hoạch của các vị thừa sai là muốn lợi dụng dòng chảy ngược của con sông Đăk Bla để mở rộng công cuộc truyền đạo đến xứ Lào. Vả chăng, các tính toán của họ chỉ dừng lại ở vùng đồng bằng Reungao mà không đi xa hơn lên phía Bắc, nơi cư trú của các bộ lạc Sedang. Cần lưu ý rằng đến năm 1920 thì đồn Đăk Tô, biểu tượng của nền an ninh của chính quyền thực dân, mới được xây dựng[10]. Điều đó cho thấy hành trình gian nan của người Pháp trong nỗ lực bình định những vùng lãnh thổ do các bộ lạc Thượng kiên cường chống trả. Với tính chất quan trọng/nhạy cảm của một trung tâm truyền giáo toàn vùng, các giáo sĩ Pháp đã lựa chọn địa điểm xây dựng trong vùng đồng bằng Đăk Bla, nơi những người Bahnar hiền lành, thật thà cư trú thay vì mạo hiểm đi sâu vào lãnh thổ của các bộ lạc Sedang chưa đầu phục[11].
Như vậy đến cuối thế kỷ XIX, vùng đồng bằng Kon Tum hội tụ đầy đủ cả ba yếu tốThiên thời (chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn buộc các giáo sĩ Pháp phải lên Kon Tum lánh nạn), Địa lợi (vùng đồng bằng Đăk Bla có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc định cư, phát triển sản xuất) và Nhân hòa (về cơ bản, các cộng đồng người Bahnar trong vùng không có thái độ thù địch với các giáo sĩ và sứ mệnh của họ), để trở thành địa điểm định cư lý tưởng và hơn một thế kỷ sau, phát triển thành một đô thị hiện đại, sầm uất như hiện nay.
Các cuộc di dân ban đầu có quy mô nhỏ lẻ nhưng một khi đã hội tụ tại vùng Kon Tum, chúng đã khiến cho cơ cấu dân cư nơi này có những chuyển biến mà trước đến giờ chưa từng xảy ra. Phân tích cấu trúc dân cư thời điểm này cho ta thấy có ba nhóm cư dân chính, tuy chênh lệch về mặt số lượng nhưng vai trò của mỗi nhóm lại rất khác nhau.
Nhóm thứ nhất, đó là người bản địa, chủ yếu là người Bahnar, theo các giáo sĩ Pháp rời bỏ làng cũ để thành lập các làng mới. Đây là trường hợp di dân nội vùng mà nguyên do khiến một số người Bahnar rời bỏ làng cũ để thành lập làng mới có thể là do bất đồng với các thành viên khác tại làng cũ, như trường hợp một bộ phận người dân Kon TrangOr đã rời đi để lập nên Kon Tum[12]. P. Dourisboure cũng thuật lại trường hợp vào năm 1853 khi cha Sáu Do mua lại một số nô lệ (do nợ nần, bị bắt cóc…) từ các làng khác để thành lập nên làng Đăk Kấm[13]. Ngoài ra còn có thể kể đến một số làng khác như Tân Hương, Phương Nghĩa, Phương Hòa, Phụng Sơn[14]. Đây là bộ phận chiếm số lượng đông đảo nhất trong lực lượng di dân đến Kon Tum.
Nhóm thứ hai, đó là những người Kinh từ đồng bằng di cư lên Kon Tum. Lịch sử tương tác giữa người Kinh vùng đồng bằng với người Thượng cao nguyên đã diễn ra từ sớm, bao gồm cả việc đi lại buôn bán của các thương lái người Kinh tại những vùng cư trú của người Thượng. Mặc dù vậy, khu vực Bắc Tây Nguyên, trong đó có vùng Kon Tum, đến nửa cuối thế kỷ XIX vẫn nằm ngoài phạm vi lui tới của các thương lái người Kinh[15]. Việc xác định thời điểm những lớp người Kinh đầu tiên đặt chân đến vùng Bắc Tây Nguyên này vẫn đang là một vấn đề bỏ ngỏ, bởi mặc dù các thương lái Kinh chưa đặt chân đến đây, nhưng từ sớm, tại khu vực này đã khá phát triển nạn săn bắt nô lệ, mà nạn nhân có khi là những người Kinh kém may mắn ở vùng đồng bằng bị lọt vào tay người Thượng qua các cuộc tràn xuống cướp bóc[16]. Võ Chuẩn có nêu lên trường hợp lập làng Phương Quí vào năm 1887 do cha Poyet chuộc một số người Kinh bị người Sedang bắt[17]. Tuy nhiên, số lượng người Kinh bị bắt đến vùng Kon Tum theo con đường này là rất ít, mà phải đến những thập niên đầu thế kỷ XX, người Kinh di cư lên đây mới dần đông hơn đưa đến việc thành lập hai làng Trung Lương (1914) và Lương Khê (1927). Đây là nhóm có số lượng đông thứ hai trong những nhóm di cư và, với kinh nghiệm của một cư dân nông nghiệp truyền thống, họ là lực lượng năng động và có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc khai phá vùng Kon Tum vào đầu thế kỷ XX.
Nhóm thứ ba, ít nhất về số lượng, lần đầu tiên xuất hiện tại cao nguyên nhưng đóng vai trò định hướng, chính là các giáo sĩ Pháp. Đây là lần đầu tiên vùng Tây Nguyên ghi nhận sự hiện diện của người phương Tây, không chỉ khác biệt về thành phần nhân chủng học so với cư dân bản địa, họ còn thuộc về một nền văn minh khác – nền văn minh phương Tây tiên tiến, đại diện cho thời đại, đến khai phá vùng Kon Tum. Là những người thuấm nhuần tinh thần khoa học tiến bộ của phương Tây, các giáo sĩ Pháp, sau ba thế kỷ thực hành sứ mệnh truyền giáo tại Đại Việt, đã tiếp xúc và học tập kinh nghiệm canh tác nông nghiệp của cư dân bản địa, và rất nhanh chóng mang đến thực hành tại vùng đồng bằng Đăk Bla, cải biến quan trọng tư duy sản xuất của người dân nơi đây[18].
Phân tích cấu trúc dân cư vùng Kon Tum hồi cuối thế kỷ XIX cho phép ta chỉ ra được đặc điểm của việc lựa chọn địa điểm định cư lập làng gắn liền với vai trò của nhóm cư dân nào trên đây và biểu hiện của điều kiện tự nhiên đã tác động đến phương thức sản xuất của các nhóm cư dân.
Một đặc điểm dễ nhận thấy trong việc thành lập các làng đầu tiên tại vùng đồng bằng Đăk Bla đó là chúng đều được xây dựng dọc ven con sông này. Có thể kể đến như các làng Tân Hương (1874), Phương Nghĩa (1882), Phương Quí (1887), Phương Hòa (1892). Riêng hai làng Kinh là Trung Lương và Lương Khê, tuy nằm xa hơn trong đất liền, nhưng nguồn nước trong các ao/hồ thời bấy giờ vẫn có thể đảm bảo nhu cầu của họ. Nguồn nước đóng vai trò quyết định trong việc lựa chọn địa điểm lập làng hồi nửa cuối thế kỷ XIX ở Kon Tum. Điều gì đã khiến việc lập làng từ lúc này trở đi phụ thuộc vào nguồn nước đến vậy?
Chúng ta biết rằng, hình thức canh tác cổ truyền của người Bahnar là rẫy khô[19]. Theo đó, sau khi đã phát/đốt rẫy và gieo hạt xong, người ta phó mặc mùa màng cho thời tiết, những năm mưa nắng điều hòa thì được mùa, ngược lại thì mất mùa[20]. Tính chất bấp bênh của nền nông nghiệp phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên như vậy khiến mất mùa và đói kém luôn là mối đe dọa thường trực đối với bất cứ làng Bahnar nào. Người Bahnar vốn có truyền thống dựng làng gần nguồn nước (sông/suối) nhưng chỉ sử dụng nguồn nước này phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, vả chăng, bản thân họ chưa bao giờ nổi tiếng về cách thức dẫn thủy nhập điền như một số tộc người khác[21]. Việc lựa chọn địa điểm lập làng dọc hai bên ven sông Đăk Bla nhằm khai thác nguồn nước dồi dào của con sông này phục vụ sản xuất nông nghiệp là một thay đổi quan trọng đến từ các giáo sĩ Pháp.
Cùng với thời gian, công cuộc truyền bá đạo Thiên chúa tại Kon Tum ngày càng trở nên phát triển, số lượng người theo đạo ngày càng đông. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vùng Bahnar vẫn còn không ít người hoài nghi đạo mới, tỏ thái độ mỉa mai những thành viên cải đạo trong làng[22]. Do vậy, các giáo sĩ thấy cần phải lập các làng mới vừa để đảm bảo không gian sinh sống cho các tân tòng và đồng thời tách họ khỏi ác cảm của những người cùng làng chưa cải đạo. Việc chọn địa điểm lập làng mới liên quan đến nhiều vấn đề mà quan trọng nhất, chính là phải đảm bảo việc sản xuất lương thực. Các giáo sĩ đã nhìn thấy ngay những hạn chế trong phương thức canh tác cổ truyền của người bản địa. Dự kiến về một miền truyền giáo phồn thịnh đòi hỏi các giáo sĩ phải thoát khỏi thói quen nông nghiệp đó, và bằng kiến thức cũng như kinh nghiệm học tập được từ người nông dân vùng đồng bằng, họ đã nhanh chóng nhận ra tiềm năng của vùng đồng bằng Đăk Bla màu mỡ, nơi mà người Bahnar đã không biết khai thác[23]. Các giáo sĩ đã cử người đi mua trâu bò, nông cụ và hướng dẫn cho các giáo dân thực hành canh tác ruộng nước. Phương thức canh tác mới trên vùng đồng bằng Đăk Bla đã nhanh chóng phát huy được tác dụng của nó: vụ mùa 1867 tại làng Jơri Kông “quá tốt đẹp”, không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu lương thực cho người dân mà còn được mang đi đổi lấy muối và các vật phẩm cần thiết tại vùng đồng bằng[24]. Người Bahnar ở các làng lân cận nhanh chóng bị thuyết phục bởi tính hiệu quả của phương thức canh tác mới, đã xin gia nhập vào làng Jơri Kông và các nơi khác cũng bắt chước lối canh tác mới này[25]. Với phương thức này, việc lập các làng mới do vậy buộc phải ở gần các con sông, và đó là lý do các làng được thành lập ở Kon Tum hồi nửa cuối thế kỷ XIX đã được xây dựng ở những vị trí như vốn dĩ. Nông nghiệp một khi đã ổn định sẽ tạo thành cái đà quan trọng cho sự phát triển về lâu dài của Kon Tum. Đó là vai trò lập làng và định hướng phương thức sản xuất của các giáo sĩ Pháp trong việc hình thành nên những điểm định cư tại Kon Tum vào nửa cuối thế kỷ XIX.
Nhóm cư dân thứ hai có vai trò quan trọng trong vận hành đời sống kinh tế Kon Tum chính là những người Kinh di cư. Phần lớn họ đến từ các tỉnh như Quảng Ngãi, Quảng Nam, Huế… và đông hơn cả là Bình Định[26]. Nông dân miền Trung là những người đã thích nghi một cách tuyệt vời với việc canh tác nông nghiệp trong các đồng bằng thung lũng nhỏ hẹp bị đồi núi chia cắt mạnh. Tuy nhiên có thể thấy, trung tâm thành phố Kon Tum không có nhiều địa điểm thích hợp cho việc trồng lúa nước. Năm 1933, Võ Chuẩn cho biết cả tổng Tân Hương chỉ có 243m2ruộng nước[27]. Với số ruộng ít ỏi như vậy, người Kinh tại thành phố không thể tự túc được nguồn lương thực tại chỗ, cho nên trong danh mục các hàng hóa của người Thượng bán cho người Kinh tại chợ Kon Tum mà Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi đã chỉ ra, chúng ta thấy có mặt hàng gạo. Người Kinh cần gạo (và các thổ sản khác) của người Thượng và đổi lại, họ cung cấp cho người Thượng những mặt hàng mà họ không tự sản xuất được. Cho nên, một trong những nghề thịnh hành nhất của người Kinh tại Kon Tum là nghề đi buôn[28]. Người Kinh mang các mặt hàng từ vùng biển (cá, mắm, muối…[29]), các đặc sản miền Trung (vải trắng, dù, giầy nịt da…) hoặc thông qua các kênh trung gian khác để mang đến cho người Thượng chiêng, đồng la, ghè, nồi đồng…[30]
Như vậy, cộng đồng người Kinh tại Kon Tum vào nửa cuối thế kỷ XIX đã tiếp nối mối quan hệ giao lưu kinh tế giữa hai vùng đồng bằng-miền núi vốn đã có từ trước[31]. Cùng với nghề buôn bán, cộng đồng các tộc người tại thành phố Kon Tum còn phát triển thêm các nghề phụ, đặc biệt là kinh tế vườn.
Kon Tum là vùng rừng núi, phần lớn vật phẩm thường ngày của người dân đều khai thác từ rừng núi. Bằng hình thức vườn, người ta đã biết cách mang một mảnh của rừng về ngay cạnh nhà. Vườn trồng các loại cây café, chè, cam, quít, thơm, chuối, dừa, mít, thuốc lá…, vừa để dùng tại chỗ vừa để mang đi trao đổi với các vùng khác[32]. Theo Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi thì hầu như ai ai cũng có vườn[33], còn theo Võ Chuẩn, vào năm 1933 cả thành phố có 432 cái vườn (không kể vườn của nhà thờ và các cơ sở công)[34]. Với dân số thành phố vào thời điểm đó khoảng 5.000 người, tính ra cứ hơn 10 người, tức khoảng từ 2-3 hộ có một cái vườn. Vườn, như vậy, đã đóng góp một phần quan trọng vào đời sống kinh tế của các cộng đồng người tại đây.
*
* *
Như vậy, chúng ta thấy rằng điều kiện tự nhiên đã quy định việc lựa chọn vùng thành phố Kon Tum làm địa điểm định cư và lập làng của các nhóm di dân lên đây hồi nửa cuối thế kỷ XIX. Chính các đặc điểm tự nhiên của vùng đất này cũng quy định các hình thức sản xuất chủ yếu mà nghề trồng lúa nước phải nhường lại vị trí hàng đầu cho nghề buôn bán và làm vườn. Nổi bật lên trong các nhóm di dân chính là vai trò định hướng của các giáo sĩ Pháp và tính chất năng động của những người Kinh trong vận hành nền kinh tế địa phương. Ở một vị trí lặng lẽ hơn nhưng không kém phần quan trọng, đó chính là cộng đồng cư dân bản địa, bởi lẽ đây là thành phần chủ đạo trong cấu trúc dân số thành phố Kon Tum nửa cuối thế kỷ XIX. Vì nhiều nguyên nhân, các nhóm cư dân đã tập trung tại Kon Tum và xem đây như là quê hương thứ hai. Lịch sử vùng Kon Tum đã chứng kiến một giai đoạn ôn hòa, hợp tác và giúp đỡ nhau cùng phát triển, tuy có lúc thăng trầm nhất định, giữa cộng đồng các tộc người tại vùng Kon Tum cho đến hôm nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Henri Maitre (2008), Rừng người Thượng, nxb Tri thức, HN.
- Li Tana (1998), Nguyễn Cochinchina. Sourthern Vietnam in the seventeenth and eighteenth century, Southeast Asia Program Publication, Ithaca, New York.
- Nguyên Ngọc (2013), Đất nước đứng lên, nxb Kim Đồng, HN.
- Nguyễn Khắc Sử (cb) (2007), Khảo cổ học tiền sử Kon Tum, nxb KHXH, HN.
- Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi (2011), Người Bahnar ở Kon Tum, nxb Tri thức, HN.
- Nguyễn Văn Chiển (cb) (1985), Tây Nguyên các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, nxb Khoa học và kỹ thuật, HN.
- P. Dourisboure (1972), Dân làng hồ, Sài Gòn.
- Tạ Văn Sỹ (2012), Tạp ký Kon Tum, nxb Văn học, HN.
- Võ Chuẩn, Kon Tum tỉnh chí, in trong Nam Phong tạp chí, các số 191, 192, 193 từ tháng 12-1933 đến tháng 3-1934.
(Đọc lần cuối 8-2013)
[1] Các nhóm di dân bao gồm di dân nội vùng và di dân liên vùng. Điều này sẽ được chúng tôi phân tích kỹ hơn ở phần sau.
[2] Khu vực huyện Chư Pah (tỉnh Gia Lai hiện nay) là một trong những cơ sơ lưu trú khá lâu của các giáo sĩ Pháp cùng các giáo dân trước khi họ quyết định rời đến vùng đồng bằng Đăk Bla hiện nay để định cư lâu dài.
[3] Chính xác hơn, địa hình vùng thành phố Kon Tum là kiểu đồng bằng bóc mòn tích tụ với núi sót. Xem Nguyễn Văn Chiển (cb) (1985), Tây Nguyên các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, nxb Khoa học và kỹ thuật, HN., tr.137. Ngoài ra cũng xem Nguyễn Khắc Sử (cb) (2007), Khảo cổ học tiền sử Kon Tum, nxb KHXH, HN., tr.20-22.
[4] Nguyễn Khắc Sử, sđd, tr.25-26.
[5] Tri thức dân gian đã hoàn toàn chính xác khi gọi vùng thành phố Kon Tum là“làng hồ”. Chúng tôi nghĩ, vào cuối thế kỷ XIX-đầu XX, số lượng ao/hồ ở Kon Tum là khá nhiều đến mức trở thành một đặc điểm đại diện cho vùng đất. Một phác họa về các ao/hồ Kon Tum gần đây có thể tham khảo Tạ Văn Sỹ (2012), Tạp ký Kon Tum, nxb Văn học, HN., tr.79-85.
[6] Nguyễn Văn Chiển, sđd, tr.197-204.
[7] P. Dourisboure (1972), Dân làng hồ, Sài Gòn, tr.202.
[8] Vùng thung lũng Kon Tum cần được hình dung rộng hơn địa giới hành chính của thành phố Kon Tum hiện nay. Thành phố Kon Tum chỉ là một bộ phận, hơn nữa, là bộ phận trung tâm của thung lũng này.
[9] P. Dourisboure, sđd, tr.41.
[10] Võ Chuẩn, Kon Tum tỉnh chí, in trong Nam Phong tạp chí, số 191, tháng 12-1933, tr.544.
[11] Trong hồi ký của mình, P. Dourisboure đã nhiều lần thuật lại các cuộc tấn công nhằm tiêu diệt phái đoàn thừa sai của các bộ lạc Sedang hiếu chiến.
[12] Võ Chuẩn, Kon Tum tỉnh chí, in trong Nam Phong tạp chí, số 191, tháng 12-1933, tr.530.
[13] P. Dourisboure, sđd, tr.106-107. Điều này cũng cho thấy tình trạng nô lệ hóa một bộ phận người Thượng để mang đi buôn bán, trao đổi hoặc phục dịch trong làng của những người chiếm hữu. Xem Henri Maitre (2008), Rừng người Thượng, nxb Tri thức, HN., tr.242-252. Trong một bài viết trước đây khi khảo sát về mạng lưới đường sá ở thành phố Kon Tum vào những năm 1900-1930, chúng tôi đã cho rằng con đường Trần Phú hiện nay có thể được mở vào những năm 1930. Sau khi đọc lại hồi ký của P. Dourisboure, chúng tôi xin đính chính lại thời điểm con đường này được mở là khoảng năm 1853 như một đường đi lại giữa làng Đăk Kấm mới lập và trung tâm Rehai.
[14] Võ Chuẩn, Kon Tum tỉnh chí, in trong Nam Phong tạp chí, số 192, tháng 1-1934, tr.30.
[15] P. Dourisboure chỉ ra khu vực xa nhất mà các thương lái lui đến buôn bán là tại làng Kon Phar, tức vùng núi Hàm Rồng tỉnh Gia Lai ngày nay. P. Dourisboure, sđd, tr.16.
[16] Li Tana, dẫn lại theo G. C. Hickey, chỉ ra rằng làng Kon Trang trong khu vùng người Sedang, đã hoạt động như là một trung tâm buôn bán nô lệ. Hickey cũng cho biết, Bok Piơm (hay Bok Khiêm trong hồi ký của P. Dourisboure) cũng là một tay buôn bán nô lệ có tiếng, mang cả người Kinh lẫn người Thượng đem đi bán ở các chợ Lào. Chính P. Dourisboure đã gặp Bok Khiêm lần đầu tiên tại Kon Phar khi ông này đang truy đuổi một người nô lệ đang bỏ trốn. Xem P. Dourisboure, sđd, tr.17-18. Nạn buôn bán nô lệ người Kinh này có lẽ xuất hiện không lâu sau khi các nhóm di dân người Việt theo chân Nguyễn Hoàng vào khai thác xứ Đàng Trong. Li Tana (1998), Nguyễn Cochinchina. Sourthern Vietnam in the seventeenth and eighteenth century, Southeast Asia Program Publication, Ithaca, New York, tr.125-129.
[17] Võ Chuẩn, Kon Tum tỉnh chí, in trong Nam Phong tạp chí, số 192, tháng 1-1934, tr.30.
[18] Trong hồi ký của mình, P. Dourisboure đã tập cho các tân tòng thực hành việc cày ruộng bằng cày và sử dụng nhiều nông cụ khác. Việc này đã tạo nên sự chuyển biến trong nhận thức của một bộ phận người Thượng khiến nhiều người trong số họ đã từ bỏ lối sản xuất chọc lỗ tra hạt truyền thống để gia nhập vào làng Jơri Kông – thành quả của tầm nhìn và kinh nghiệm sản xuất tiến bộ của các giáo sĩ Pháp. Xem quá trình thành lập làng Jơri Kông tháng 12-1868 P. Dourisboure, sđd, tr.203-208.
[19] Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi (2011), Người Bahnar ở Kon Tum, nxb Tri thức, HN., tr.240-246.
[20] Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi có ghi lại lời khấn của một người Bahnar trước khi làm lễ trỉa lúa như sau: “Hôm nay chúng tôi trỉa lúa, chúng tôi xin thần sấm sét, thần ya Pôm, thần lúa, thần núi, thần cây, thần đá đến ăn uống rượu, gan gà. Các ông hảy thương chúng tôi, cho nhiều lúa gạo để chúng tôi mua được chiêng, được ghè satôk”. (Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi, sđd, tr.242). Điều thú vị trong lời khấn trên đây là, người khấn kể tên một loạt các vị thần phù hộ cho nông nghiệp (thần sấm sét cũng có thể suy rộng ra là mưa) nhưng lại không kể tên thần Nước (yang Dak). Điều này cho thấy phương thức canh tác cổ truyền của người Bahnar không đặt nặng vấn đề phải ở gần nguồn nước (sông).
[21] Trong tác phẩm Đất nước đứng lên, Nguyên Ngọc có đề cập đến chi tiết Núp đã “cả gan” múc nước suối Thi-om tưới lúa chống hạn, điều mà người Bahnar từ xưa đến giờ chưa bao giờ làm, khiến cho các già làng rất sợ. Xem Nguyên Ngọc (2013), Đất nước đứng lên, nxb Kim Đồng, HN, tr.174-175.
[22] P. Dourisboure, sđd, tr.97-98.
[23] P. Dourisboure, sđd, tr.201-202. Dourisboure đã hình dung các làng mới này giống như những “nông trại kiểu mẫu”.
[24] P. Dourisboure, sđd, tr.206-207.
[25] Cho nên, năm 1933, khi hai anh em Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi lên Kon Tum nhìn thấy người Thượng cũng biết dùng cày cày ruộng, đã tấm tắc khen đấy là nơi “đô hội lớn”. Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi, sđd, tr.147, 153. Các mảnh ruộng nước thời bấy giờ có thể được quan sát ở làng Kon K’tu 1 hoặc vùng trước cổng chùa Bác Ái.
[26] Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi, sđd, tr.144.
[27] Võ Chuẩn, Kon Tum tỉnh chí, in trong Nam Phong tạp chí, số 192, tháng 1-1934, tr.27. Ruộng nước tập trung tại các làng Tân Hương, Phương Quí, Phương Nghĩa. Có lẽ Võ Chuẩn không tính đến số ruộng Lào nằm ở vùng ven thành phố ngày nay có diện tích khá lớn.
[28] Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi, sđd, tr.148-149. Vì không nặng về canh tác nông nghiệp cho nên chúng ta ít thấy ảnh hưởng của nông nghiệp in dấu trong đời sống người Kinh tại đây. Khảo sát các địa danh tại Kon Tum do người Kinh đặt ra hồi nửa cuối thế kỷ XIX, chúng ta không thấy địa danh nào mang yếu tố “nước”.
[29] Mối quan hệ giao lưu kinh tế Kinh-Thượng này được phản ánh trong câu ca dao “Ai về nhắn với nậu nguồn/ Măng le/ Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên”.
[30] Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi, sđd, tr.148-149.
[31] Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, vui lòng đọc bài MIỀN THƯỢNG TRONG MỐI QUAN HỆ GIAO LƯU KINH TẾ VỚI ĐÀNG TRONG
[32] Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi, sđd, tr.147.
[33] Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi, sđd, tr.147.
[34] Võ Chuẩn, Kon Tum tỉnh chí, in trong Nam Phong tạp chí, số 193, tháng 2, 3-1934, tr.142. Tại thành phố hiện nay vẫn còn giữ lại một số các tên như Xóm rau, Xóm lưới, Xóm lò heo…, các tên gọi này đều lấy nghề nghiệp chính tại xóm đó để đặt tên xóm. Liệu có phải chúng xuất phát từ giai đoạn này chăng!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét