Ngày 26.07.2012, Giáo Hội Việt Nam mừng kính
Chân phước Anrê Phú Yên. Chân phước Anrê Phú Yên được chọn làm Bổn mạng của
các Giáo lý viên. Vào dịp lễ này, nhiều nơi trong các Giáo phận trong nước Việt
Nam
tổ chức mừng lễ dưới nhiều hình thức, nhất là các Giáo lý viên. Giáo phận Kon
Tum vừa tổ chức Ngày Truyền thống của GLV giáo phận, mừng lễ Bổn mạng ngày
26.07.2912.
Nhân dịp này, Dân Làng Hồ xin giới
thiệu bài viết về tiểu sử Á thánh Anrê Phú Yên dưới đây.
CHÂN
PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN (1625-1644)
Lm. Gioan Võ Đình Đệ
1. Tên gọi và năm sinh
Tên gọi dân sự của thầy cho đến
nay vẫn chưa tìm thấy bút tích nào để lại. Được nhận tên Thánh Anrê khi chịu
phép rửa tội. Tên thánh rửa tội Anrê cùng với quê quán là tên gọi của Anrê Phú
Yên. Tên gọi Anrê Phú Yên là tên chính thức được Tòa Thánh công nhận.
Căn cứ vào năm thầy tử đạo, năm
1644, Cha Đắc Lộ xác nhận lúc ấy thầy 19 tuổi, chúng ta biết được thầy đã chào
đời năm 1625.
2.
Nơi lãnh nhận Bí tích Rửa tội
Theo
lời cha Đắc Lộ xác nhận: “Đúng 03 năm trước khi chết, mẹ thầy dẫn thầy đến cho
tôi, và tôi được hạnh phúc rửa tội cho thầy” [1]. Như vậy Anrê
Phú Yên được rửa tội năm 1641.
Nơi thầy được rửa tội ở đâu ?
Cũng theo tài liệu của cha Đắc Lộ,
Anrê Phú Yên là một trong 90 người được cha Đắc Lộ rửa tội trong dịp tĩnh tâm bốn
ngày liền tại nhà nguyện của bà Mađalêna Ngọc Liên trong Dinh Trấn Biên Phú Yên.
Dinh Trấn Biên Phú Yên được chúa
Sãi Nguyễn Phúc Nguyên thành lập năm 1629 và giao cho con rễ là phó tướng Nguyễn
Phúc Vinh trấn giữ. Vợ Nguyễn Phúc Vinh là Ngọc Liên, trưởng nữ của chúa Sãi.
Bà được rửa tội năm 1636. Bà lập nhà nguyện tại Dinh Trấn Biên. Đây là nhà nguyện
đầu tiên trên đất Phú Yên.
Xác định vị trí Dinh Trấn biên:
Trong “Bản đồ Vương Quốc Annam ” của
cha Đắc Lộ, in năm 1651, có vẽ tỉnh “Province de Ranran”. Bắc giáp
Quinhin ( Qui Nhơn ), Nam giáp
Chiêm thành. Đó chính là tỉnh Phú Yên ngày nay. Trên bản đồ nầy, Phú Yên có ba
con sông. Theo các nhà sử học, con sông nhỏ ở phía Bắc là sông Cầu; con sông lớn
hơn ở giữa là sông Cái; con sông lớn nhất ở phía Nam là sông Đà Rằng. Thủ phủ của
tỉnh được ghi là “Dinh Phoan” tọa lạc bên phía Bắc con sông ở giữa, tức
sông Cái, ở chỗ gần cửa biển. Đây chính làDinh Trấn biên được chúa
Sãi lập năm 1629. Do những tác động của thiên nhiên, ngày nay toàn bộ Dinh Trấn
Biên nằm dưới nước dòng sông Cái.
Dinh Trấn Biên ngày nay được gọi
là Thành Cũ, thuộc thôn Bình Thạnh, xã An Ninh Tây, huyện Tuy An. Tên gọi nầy
xuất hiện như để phân biệt với Thành An Thổ được vua Minh Mạng (1820-1840)
thành lập vào thế kỷ 19. Thành An Thổ ngày nay thuộc thôn An Thổ, xã An Dân,
huyện Tuy An. Về năm thành lập thành An Thổ thì các sử liệu ghi chép khác nhau.
Cuốn Phương Đình dư địa chí của Nguyễn Siêu thì ghi là năm 1832; cuốn Đại
Nam thực lục chính biên thì ghi là năm 1836; cuốn Đại Nam nhất thống
chí thì ghi là năm 1838.
3. Nơi sinh
Thời điểm thầy Anrê Phú Yên chào
đời là thời điểm Phú Yên đang còn trong giai đoạn bắt đầu khai phá, khẩn hoang.
Lực lượng khẩn hoang nầy là những đoàn di dân từ Thuận Quảng, phía Bắc Phú Yên,
như Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Ông cha của
thầy Anrê Phú Yên thuộc những người di dân nầy.
Lúc bấy giờ Phú Yên là vùng đất mới
được chúa Nguyễn ổn định an ninh chính trị. Tuy nhiên việc khai khẩn đất hoang,
lập làng vẫn còn nhiều yếu tố trở ngại, như về an ninh trật tự ở biên giới phía
Nam với Chiêm Thành, khí hậu khắc nghiệt, nước độc, chướng khí từ rừng hoang cỏ
rậm và ác thú ở miền núi. Do đó chỉ còn vùng đồng bằng ven biển, đặc biệt vùng
châu thổ sông Cái, khí hậu hiền hòa, dễ bắt con cua con cá, trồng được lúa nước,
cách xa biên giới phía Nam, là vùng “đất vàng” được các di dân ưu tiên chọn lựa
định cư. Dinh Trấn Biên cũng được thành lập tại vùng châu thổ nầy. Xét những điều
kiện nầy, có thể gia đình của Anrê đã chọn vùng châu thổ sông Cái để định cư.
Toàn bộ vùng châu thổ nầy, ngày nay thuộc giáo xứ Mằng Lăng.
Đầu năm 1639, toàn bộ các thừa
sai Dòng Tên ở Đàng Trong đã bị chúa Nguyễn trục xuất. Lúc bấy giờ Cha Đắc Lộ
đang ở Ma Cao. Cha tận dụng ảnh hưởng của các thương nhân người Bồ đối với chúa
Nguyễn để cha được ra vào Đàng Trong tất cả bốn lần. Lần thứ nhất (02/1640 -
8/1640), lần thứ hai (12/1640 - 7/1641), lần thứ ba (01/1642 – 9/1643), lần thứ
tư (01/1644 – 03/7/1645). Trong chuyến trở lại Đàng Trong lần thứ hai, cha Đắc
Lộ đã tận dụng cơ hội để thăm viếng tín hữu Phú Yên. Nhân dịp nầy cha rửa tội
cho Anrê Phú Yên tại nhà nguyện của bà Mađalêna Ngọc Liên trong Dinh Trấn Biên
Phú Yên.
Xét hoàn cảnh sự hiện diện của
cha Đắc Lộ tại Dinh Trấn Biên lúc nầy, có thể cha chỉ thăm viếng các tín hữu và
qui tụ các tân tòng trong phạm vi những làng lân cận Dinh Trấn Biên. Học giả Phạm
Đình Khiêm đã viết: “ Xét vì cuộc viếng thăm của giáo sĩ chỉ thâu hẹp trong các
làng phụ cận dinh Trấn Biên, mà phương tiện truyền tin và giao thông thời ấy lại
rất hạn chế, người ta có lý do để tin rằng những giáo hữu tân tòng kia không phải
từ ở nơi xa đến, mà chính là những người ở ngay chỗ trấn lỵ và phụ cận”.[2]
Từ nhận định nầy, Học giả Phạm
Đình Khiêm đi đến một nhận định khác: “Như vậy sinh quán của anh hùng Anrê Phú
Yên, không đâu khác ngoài các làng Hội Phú và lân cận là Long Uyên, Diêm Điền,
Hội Tín, Phú Thọ, Minh Chính… Tại Long Uyên ngày nay có một ngôi nhà thờ nhỏ lợp
lá, với một họ đạo non vài trăm nhân danh, gọi là họ “Lò giấy”. Theo lời truyền
tụng, đó là họ đạo xưa nhất trong cả miền, đã cống hiến cho Giáo hội mấy chục
người tử đạo đời Văn thân. Phải chăng đó chính là làng quê của thầy giảng Anrê
? ”.[3]
Học giả Phạm Đình Khiêm đã đặt vấn
đề “Phải chăng (Lò Giấy) đó chính là làng quê của thầy giảng Anrê ? ”. Và vì chỉ
là nghi vấn không thể chứng minh được nên ngay sau đó ông khẳng định: “Dầu sao
thì tất cả miền này đều thuộc địa sở (họ chính) Mằng Lăng, một địa sở tôn giáo
rất quan trọng, gồm 12 họ nhánh, 3.000 giáo hữu, với ngôi nhà thờ nguy nga đẹp
đẽ nhất tỉnh. Vậy nếu không định rõ được đích xác làng, thôn nào đã sản xuất vị
anh hùng, ít nhất ta cũng được biết chắc chắn Mằng Lăng là “xứ đạo quê hương”
(paroisse natale) của người, và đó là một nhận định quan trọng, vì “xứ đạo” (địa
sở tôn giáo) là đơn vị căn bản của địa dư Giáo hội”.
Thật ra, Lò Giấy là một giáo họ được
thành lập sau năm 1747 và trước năm 1850. Trong thống kê của các thừa sai năm
1747, Phú Yên có 06 nhà thờ và 67 nhà nguyện của các giáo họ liên hệ,
trong đó Chợ Mới là nhà thờ chính trong vùng, là trú sở của các thừa sai [4]. Chợ Mới hiện
nay là một giáo họ của giáo xứ Mằng Lăng. Trong số 06 nhà thờ và 67 nhà nguyện
của thống kê năm 1747 chưa thấy có tên giáo họ Lò Giấy, và ngay cả Mằng Lăng
cũng chưa có.
Trong thống kê năm 1850 của Thánh
Giám mục Cuênot Thể, Phú Yên được chia làm hai xứ, xứ phía Bắc và xứ phía Nam.
Trong đó, Lò Giấy và Mằng Lăng thuộc xứ phía Bắc. [5]
Với các chứng cứ trên đây cho thấy
việc xác định Lò Giấy là nơi sinh của Anrê Phú Yên là một khẳng định chưa đủ chứng
cứ lịch sử. Nói cách khác, không thể xác định Lò Giấy là nơi sinh của Anrê Phú
Yên. Do đó, quan điểm của Học giả Phạm Đình Khiêm dễ được chấp nhận: “nếu không
định rõ được đích xác làng, thôn nào đã sản xuất vị anh hùng, ít nhất ta cũng được
biết chắc chắn Mằng Lăng là “xứ đạo quê hương” (paroisse natale) của người, và
đó là một nhận định quan trọng, vì “xứ đạo” (địa sở tôn giáo) là đơn vị căn bản
của địa dư Giáo hội”.
4. Nơi tử đạo :
Chân phước Anrê Phú Yên tử đạo tại
Gò Xử, Thành Chiêm, Điện Bàn, Quảng Nam . Nay thuộc giáo họ Phước Kiều,
giáo xứ Hội An, giáo phận Đà nẵng.
5. Tuyên phong Chân phước :
Thầy giảng Anrê Phú Yên được Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong Chân phước vào ngày 05 tháng 3 năm 2000.
Sau đó, để bày tỏ tâm tình tạ ơn
Chúa cách long trọng và để tôn vinh Chân phước Anrê Phú Yên, vị tử đạo tiên khởi
của Hội Thánh Việt Nam, giáo phận Qui Nhơn đã tổ chức ngày hội trại đầu
tiên của giảng viên giáo lý giáo phận Qui Nhơn từ ngày 25 đến ngày 26/7/2000 tại
giáo xứ Mằng Lăng, quê hương của Chân phước Anrê Phú Yên. Đỉnh điểm của tâm
tình tạ ơn là Thánh lễ đồng tế do Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn chủ sự.
Tại Đại Hội Giới Trẻ thế giới lần
thứ 17 ở Toronto, Canada, (23-28/7/2002), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II nêu Chân Phước Anrê Phú Yên ở vị trí thứ hai trong số 10 vị thánh trẻ
tiêu biểu làm mẫu gương cho cuộc sống.
Tại Hội Nghị thường niên ở Bãi
Dâu từ ngày 25 đến ngày 27/3/2008, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã chính thức chấp thuận chọn ngày làm chứng
của Chân Phước Anrê Phú Yên, 26/7, làm Ngày Giảng Viên Giáo Lý Việt Nam .
II. SỰ NGHIỆP
Nói đến Anrê Phú yên, là nói đến
một người trẻ 19 xuân xanh, can trường sống chết vì Chúa Giêsu.
Nói đến Anrê Phú Yên, là nói đến
một mẫu gương về các kĩ năng sống cho giới trẻ.
Nói đến Anrê Phú Yên là nói đến một
mẫu gương phục vụ dân Chúa của các giảng viên giáo lý.
Như thế, nói đến Anrê Phú Yên là
nói đến một cuộc đời đã hoàn thành. Chúng ta rút được bài học nào trong con người
đã hoàn thành cuộc đời mới có 19 xuân xanh đó không ?
Cuộc đời hoàn thành đã được sách
Khải huyền diễn tả“ CHIỀU DÀI, CHIỀU RỘNG VÀ CHIỀU CAO ĐỀU BẰNG
NHAU ”(Kh 21,16).
1. CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN VỚI
CHIỀU DÀI CUỘC ĐỜI :
Mỗi người có thời gian sống ngắn,
dài khác nhau. Mỗi người có những khả năng làm việc khác nhau. Theo
chỉ dẫn của dụ ngôn những nén bạc trong Tin mừng ( Mt 25, 14-30 ), mỗi người có
trách nhiệm khám phá sứ mạng, khả năng của mình trong suốt chiều dài cuộc sống.
Phải làm hết sức mình để thực hiện sứ mạng và những khả năng của mình. Phải
hành động như thể Thiên Chúa đã giao cho mình chính công việc nầy, vào lúc nầy.
Chiều dài cuộc đời là chuỗi dài các nỗ lực của mỗi người để đạt được hạnh phúc
trong suốt chiều dài cuộc đời của mình.
Năm 1642, Anrê Phú Yên khăn gói
lên đường với cha Đắc Lộ về Hội An. Tại trường “thầy giảng Hội An” do cha Đắc Lộ
thành lập, Anrê được nhập đoàn với 09 người anh ưu tú trong cộng đoàn thầy giảng,
Anrê là người em út.
Ngoài
việc luyện tập nhân đức, học giáo lý bằng quốc ngữ, chữ nôm, chữ hán, các thầy
giảng còn được học kinh sử cổ điển. Về môn học nầy đã có sẳn một thầy giáo
trong cộng đoàn là thầy Inhaxiô, từng là một cựu quan ở Chính Dinh. Cha Đắc Lộ
nói về Anrê: “Tôi giao thầy Anrê cho một trong những thầy giảng khác của tôi là
Inhaxiô, là người rất khôn ngoan, thông thái để học văn chương Trung Hoa; Anrê
học hành có kết quả đến nỗi Inhaxiô phải nói với tôi rằng: Trong tất cả các môn
sinh, không một người nào đọ kịp trí tuệ của Anrê, thầy linh lợi thông minh, học
đâu hiểu đó” [6].
Nơi trường thầy giảng, Anrê theo
đuổi việc tu đức và học vấn nhưng không bỏ qua những việc cần làm để giúp đỡ người
khác, như Cha Đắc lộ nhận xét người học trò nhỏ của mình: “Người thầy không khỏe
mạnh gì lắm, thế mà việc khó mấy trong nhà, thầy cũng làm luôn, nhiều khi lại
làm quá sức mình; thầy quên mình để giúp kẻ khác”.
- Làm hết sức mình, làm cách hoàn
hảo nhất những gì có thể làm:
Lễ Chúa Giáng Sinh năm 1643, nhóm
thầy giảng đang có mặt tại kinh đô mừng lễ Giáng Sinh ngay trong dinh Tổng Trấn
Nguyễn Phúc Khê. Không có linh mục, không có Thánh lễ, Thầy Anrê Phú Yên làm
hang đá, một điểm qui tụ tín hữu trong vùng lân cận và chính Tổng Trấn Nguyễn
Phúc Khê cùng con cháu và gia nhân đến triều bái, thờ lạy Ngôi Hai Thiên Chúa
xuống thế làm người. Cha Đắc Lộ tóm tắt công việc của thầy Anrê trong những
tháng ngày làm việc ở vùng truyền giáo này: “Thầy Anrê đặc biệt chăm chỉ đi
theo thầy Inhaxiô trong mọi hoạt động vì lòng bác ái, thầy đến tận kinh đô xứ
Đàng Trong, ở đó riêng mình thầy làm việc bằng nhiều người khác”. Thầy giảng đạo
cho người ngoại giáo, dạy dỗ kẻ tân tòng…, dọn dẹp nhà thờ rất sạch sẽ, trang
hoàng nhà thờ trong những ngày lễ lớn, khéo léo đến nỗi làm cho bổn đạo tăng
thêm lòng sốt sắng và cả người ngoại giáo cũng phải trọng kính mầu nhiệm của đạo” [7].
2. CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN VỚI
CHIỀU RỘNG CUỘC ĐỜI
Chiều rộng cuộc đời là việc mưu cầu
hạnh phúc cho người khác.
Cha Đắc Lộ tóm tắt hoa quả về
cách đối nhân xử thế của Anrê: “Anrê ở nhà tôi chỉ ít lâu, nhân đức trong linh
hồn thầy đã biểu lộ ra ngoài; thầy sống giữa chúng tôi như một vị thánh nhỏ; thầy
có tư thái hiền hậu, đức vâng lời mau lẹ, rất kính trọng mọi người, khiến ai ai
cũng đều cảm phục”. Sự thông minh và những khả năng của thầy chẳng làm hại chút
nào đến đường tu đức của thầy: “Tất cả những lợi điểm đó chẳng làm cho thầy có
chút vẻ gì là kiêu ngạo hay tự mãn: Thầy coi mình như kém hết mọi người, và
không có gì làm cho thầy bằng lòng hơn là được dịp phục vụ người khác” [8].
Quả vậy, Anrê nhỏ con, nhỏ người,
ốm yếu, làm những việc nhỏ: Dọn bàn thờ, làm hang đá, chăm sóc bệnh nhân..., nhỏ
nhất trong nhóm thầy giảng Đàng Trong, nhỏ tuổi đời, nhỏ tuổi đạo, nhỏ tuổi tu:
Sinh năm 1625, rửa tội năm 1641, nhập đoàn thầy giảng năm 1642, khấn trọn năm
1643, tử đạo năm 1644.
Dưới bóng cha Đắc Lộ và một số thầy
giảng từng là ông cử, ông quan, thầy Anrê trẻ tuổi, quê mùa, chơn chất không có
gì đáng kể. Tuy nhiên, mặt trời chiếu soi ban ngày, vầng trăng soi chiếu ban
đêm, sao hôm, sao mai dù leo lét nhưng là một dấu chỉ đường, một ngọn hải đăng
trên bầu trời. Có đường quốc lộ, cũng có những con đường làng nhỏ hẹp; có cầu
Ngân Sơn với những kỷ thuật cao cho bộ hành Bắc Nam, cũng có cầu Lò Gốm giản đơn
hơn cho cư dân và du khách về Mằng Lăng; có giòng sông Cái [9] hữu tình
nước trong xanh lững lờ, cũng có những dòng suối nhỏ nên thơ. Ai cũng có gì để
cho, ai cũng có gì để đóng góp cho anh chị em, cho Hội Thánh. Trọn tâm, trọn ý,
trọn tình từ trong công việc nhỏ, đơn điệu, âm thầm, đó là đạo lý của
Tin Mừng: “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc nhỏ mà
anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc lớn, hãy vào hưởng niềm vui
của chủ anh” (Mt 25, 21).
Ngày 25 tháng 7 năm 1644, ông
Nghè Bộ cho lính đến trụ sở Dòng Tên tại Hội An tìm bắt thầy Inhaxiô theo lệnh
bà Tống Thị. Hôm ấy Cha Đắc Lộ và thầy Inhaxiô cùng với 04 thầy khác đang đi
làm việc tông đồ, thầy Anrê Phú Yên ở nhà săn sóc 04 thầy trong nhóm đang bị bệnh.
Toán lính không tìm thấy thầy Inhaxiô, Thầy Anrê bạo dạn nói với toán lính: “Nếu
các ông muốn bắt thầy Inhaxiô thì vô ích vì Inhaxiô không có ở đây. Còn muốn bắt
tôi thì rất dễ dàng, tôi là tín hữu, hơn nữa là thầy giảng. Tôi có cả hai tội
mà các ông khép cho thầy Inhaxiô để bắt thầy ấy. Nếu thầy ấy có tội thì tôi làm
sao vô tội được” [10].
Toán lính không bỏ lỡ cơ hội, họ
bắt và trói thầy Anrê như chiên hiền lành không chống cự. Sau đó toán lính xúc
phạm đến các ảnh thánh, thầy khuyên can họ: “Nếu các ông quyết định lấy những ảnh
thánh ấy, thì cứ để tôi sắp xếp cẩn thận cho, càng dễ mang đi”. Thầy Anrê được
cởi trói để làm điều thầy nói, sau đó thầy đưa tay cho lính trói thầy trở lại.
Đã làm những điều ấy nhưng lính chưa thỏa mãn, lính lôi một thầy đang đau nằm
trên giường, định bắt giải đi. Thầy Anrê dịu ngọt thuyết phục, họ để cho thầy ấy
được tự do, còn chính người van xin biện hộ cho anh em thì lên đường khổ nạn.
Quả
vậy, ơn thánh không hủy diệt bản tính tự nhiên nhưng đón nhận, thánh hóa, và trợ
giúp để bản tính tự nhiên tiến đến hoàn thiện viên mãn. Với đức nhân, với lòng
dũng cảm, với trí khôn ngoan cùng với ơn thánh, thầy Anrê quyết định để cho
lính bắt thầy mau chóng như thế; có thể vì thầy đã nghĩ rằng: Thầy là người em út
trong nhóm thầy giảng, thầy có mất đi cũng không ảnh hưởng gì đến sinh hoạt, đến
sự sống còn của nhóm. Trong khi nếu thầy Inhaxiô, người anh cả khôn ngoan, bản
lĩnh...mất đi thì sẽ ảnh hưởng lớn đến nhóm. Cha Đắc Lộ là sư phụ, là linh hồn
của nhóm, nhưng sự hiện của cha có tính cách bấp bênh vì lệnh trục xuất của ông
Nghè Bộ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Do đó sự hiện diện của thầy Inhaxiô luôn
luôn cần thiết cho anh em, cho công cuộc truyền giáo. Để cho lính bắt thầy như
một ‘chiến lợi phẩm’, điều đó có thể làm dịu đi việc truy tìm thầy Inhaxiô, đồng
thời là tiếng chuông báo động nguy hiểm cho thầy Inhaxiô, thầy Inhaxiô có thể
trốn thoát.
Quả vậy, trong lúc tấn bi kịch xảy
ra tại Hội An thì Cha Đắc Lộ và các thầy giảng sắp vào Dinh Trấn thăm hữu nghị
ông Nghè Bộ. Vừa lúc ấy, ý Chúa nhiệm mầu sai khiến ông Horace Massa, một thương
gia người Ý chạy đến cấp báo cho cha Đắc Lộ biết sự việc xảy ra tại Hội An. Cha
Đắc Lộ vội vàng cho các thầy giảng trở về tìm nơi ẩn núp. Còn thầy Anrê đã chọn
hy sinh, quên mình làm hướng đi và thầy đã trung thành đến hơi thở cuối cùng với
lựa chọn của mình.
3. CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN VỚI
CHIỀU CAO CUỘC ĐỜI
- Chiều cao cuộc đời là hướng đi
lên tới Thiên Chúa.
Được biết Chúa Giêsu, yêu mến
Chúa Giêsu và làm chứng cho Chúa Giêsu là hành trình đức tin thánh Tông Đồ Anrê
đã đi. Sau 17 thế kỷ, cũng từ miền sông nước, một Anrê khác theo gương vị Bổn mạng
của mình, đã từ bỏ Sõng lưới, từ bỏ ruộng vườn, từ bỏ gia đình...để
dành trọn vẹn tình yêu cho Chúa Giêsu. “Hãy giữ nghĩa cùng Chúa Giêsu cho đến hết
hơi, cho đến trọn đời” là châm ngôn sống của Chân phước Anrê Phú Yên.
Trong
sân nhà lao, Anrê Phú Yên đã khẳng định lòng tín thác đó khi nói với đám đông lương
giáo vây quanh mình : “Các anh em thấy rõ tôi đây đã bị bắt và sắp phải chết,
chẳng phải vì ăn cướp, giết người hay làm thiệt hại ai, mà chỉ vì tôi đã nhìn
nhận Chúa tể trời đất và Con Một Người xuống thế chuộc tội cho ta. Mọi sự ta có
đều do Người. Thế mà người ta lại muốn tôi phạm đến Người. Tôi chẳng sợ bất cứ
hình phạt nào người ta có thể bắt tôi chịu, tôi chỉ sợ lửa hoả ngục đời đời. Hỡi
anh em, anh em hãy coi chừng, đừng từ chối ơn Đức Chúa Trời đã ban cho anh em ”
(Sđd. Tr.148).
Cha Đắc Lộ kể lại những giây phút
cuối cùng của Chân phước Anrê Phú Yên đã hoàn thành cuộc đời vào chiều hôm
26/07/1644: :“ Tôi mê hồn nhìn thấy người thanh niên chân phước kia,
lúc ấy quỳ gối, và đã bị đâm ba lần ở sau lưng, chẳng những không ngã quỵ, mà lại
không hề lay chuyển; Thầy được vững mạnh như vậy trong ơn thánh sủng nâng đỡ Thầy;
Thầy vẫn luôn luôn không chuyển động, và tôi thấy diện mạo của Thầy không mất
chút nào về vẻ bình thản cũng như về màu sắc… Người thanh niên thánh
thiện nầy vẫn không ngớt đọc Thánh Danh Chúa Giêsu; ngay khi đầu của thầy đã rời
khỏi cuống họng, và nằm ngả trên vai bên phải, tôi nghe thấy rỏ ràng tên cực trọng
Giêsu phát ra từ vết thương nơi cổ, cùng một giọng giống hệt như từ cửa miệng
phát ra lúc trước; tôi nghe thấy thế rất rõ ràng và tất cả những người gần tôi
lúc ấy đều nói như vậy, vừa vui mừng, lại vừa kinh ngạc. Thánh Danh Giêsu không
thể phát ra từ miệng thầy nữa, thì lại phát ra từ trái tim thầy, ngay đang lúc
thôi đập, để tỏ rằng trái tim nầy dầu có chết, cũng còn giữ mãi Thánh Danh
kia, và khi không thể dùng miệng lưỡi mà ca ngợi Danh Thánh Giêsu được, thì thầy
dùng chính vết thương mình mà ca ngợi Danh Chúa...” (Sđd, tr. 156).
Cùng với Thánh Phaolô, Chân Phước
Anrê Phú Yên đã tiếp tục minh định : “ Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi,
so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người
tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp
với Người” (phil. 3,8).
III.
MẢNH ĐẤT TỐT CHO HẠT GIỐNG NẨY MẦM
1. Nơi Chân phước Anrê Phú Yên: sự
tự do của con người được kết hợp hài hòa với ân sủng.
Chúng ta thử nghĩ xem, vào lúc
hạt giống Tin mừng mới vừa được gieo trên quê hương chúng ta, làm sao một chàng
thanh niên mới 15 tuổi đã dứt khoát chọn lựa theo Chúa và dám đem cái chết của
mình ra để minh chứng lòng tín trung của mình ? chết vào lúc 19 tuổi,
chết quá trẻ, sống đức tin hơn 3 năm. Quả vậy, không có ơn Chúa chúng ta không
làm được việc gì. Do đó phải nói được rằng nơi Chân phước Anrê Phú Yên là
chuỗi dài sự tự do của con người được kết hợp hài hòa với ân sủng. Chân phước
Anrê Phú Yên đã tự do quyết định hướng đi cho đời mình và dù ơn Chúa là một kho
tàng bất tận luôn có đó, nhưng Anrê Phú Yên phải ra sức mò mẫm hy sinh trong cố
gắng của cả một đời người để hoàn thành cuộc đời, mặc dù ngắn ngủi.
2. Môi trường sinh thái của nhân
bản và đạo đức
Anrê Phú Yên đã quảng đại hy sinh
cuộc đời mình và tự nguyện lãnh lấy trách nhiệm trong cuộc sống. Việc này có được
không phải là một sớm một chiều. Nó có bề dày nền tảng của nó. Đó là nhờ có một
bà mẹ đạo đức, một người thầy uyên thâm và một mẫu gương tông đồ giáo dân sáng
ngời.
2.1. Bà Gioanna
Bà Gioanna, mẹ của Anrê, góa
chồng sớm, nhưng đã dạy con chu đáo. Chính bà đã đến xin cha Đắc lộ cho con
mình làm đệ tử của cha. Yếu tố người mẹ trong việc giáo dục nhân cách và đức
tin rất quan trọng. Chúa sáng tạo và quan phòng đã phú ban cho người nữ tấm
lòng của người mẹ, lòng mẹ thì bao như biển Thái Bình, lòng mẹ hy sinh, lòng mẹ
yêu thương. Cha Philipphê Bỉnh viết : “Bà rất chăm sóc việc giáo dục cho
Anrê về đường đức hạnh và đường học vấn”. (truyện Đàng Trão, trang 46).
2.2. Cha Đắc Lộ
Cha Đắc Lộ, vị truyền giáo tài
tình đã nhờ ơn Chúa soi sáng và kết hợp với sáng kiến cá nhân của ngài mà Nhà
Đức Chúa Trời đã được lập nên, phỏng theo đời sống đại gia đình Việt Nam , ngài
lấy tinh thần gia đình để huấn luyện các học trò của mình. Các thầy
giảng đã được huấn luyện nhuần nhuyễn từ nền lễ giáo Đông Phương về nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, và sau đó trong cái gốc đầy sức sống ấy, cha Đắc Lộ đã cấy
ghép Đức tin Kitô giáo vào. Nhờ vậy đạo Công giáo mà cha và các thầy rao giảng
không xa lạ đối với đồng bào chúng ta. Tất cả chúng ta từ nhiều địa phương, từ
nhiều dòng họ khác nhau được mời gọi sống chung thành đại gia đình con cái
Chúa. Tình Gia đình đó là một tình cảm sâu nặng mà mỗi người chúng ta
phải phát huy trong đại gia đình chúng ta đang sống, cộng đoàn dân
Chúa.
Năm 1642 Cha Đắc Lộ có dịp đến
Phú Yên lần thứ hai, Anrê Phú Yên ngỏ lời với cha Đắc Lộ, xin theo Cha giúp việc
truyền giáo. Lúc đầu cha Đắc Lộ từ chối vì Anrê còn trẻ, hơn nữa trong thời buổi
cấm đạo việc di chuyển của đoàn truyền giáo có đông người là điều nên tránh.
Tuy nhiên sự kiên trì nài nỉ của Anrê và của người mẹ đạo đức, đến không để van
xin cho con út quý yêu của mình được ‘ngồi bên tả hay bên hữu’ mà đến để van
xin được đồng hành yêu mến và làm chứng cho Chúa Giêsu. Thiện chí đó đã khiến
Cha Đắc Lộ gạt sang một bên cái lôgíc rất hợp tình hợp lý, rất khôn ngoan, rất
người kia, để nhường chỗ cho cái lôgíc tình yêu quan phòng của Thiên Chúa chiếm
hữu và hướng dẫn. Hoan hô Cha Đắc Lộ ! Bài giáo lý bao đồng Cha truyền lại cho
Anrê Phú Yên không phải là những lời nói suông mà là một thái độ sống ấn tượng.
Anrê đã nhập tâm bài giáo lý bao đồng ấy : Tín thác hoàn toàn vào tình yêu
quan phòng của Cha trên trời. Lòng tín thác ấy đã được tỏ lộ mạnh mẽ trong
cuộc đời, nhất là lúc đối diện với đau khổ và cái chết.
2.3. BÀ NGỌC LIÊN CÔNG CHÚA
Đặc tính của người nữ là yêu
thương phục vụ, có rất nhiều ơn gọi phục vụ không kèn không trống đang
diễn ra từng ngày, trong gia đình, trong giáo xứ, trong các môi trường hoạt
động thiện ích xã hội. Việc những người nữ tham gia vào việc hoạt
động truyền giáo đã đem lại nhiều hiệu quả. Trường hợp bà Maria Ngọc Liên là
một điển hình. Dựa vào lòng bao dung sẳn có nơi người nữ, lại nữa như một
folklore của dân tộc, các vị thừa sai khơi sáng lòng bao dunghướng tới
những người nghèo, những người bị bỏ rơi. Cha Đắc Lộ ghi nhận : “Một bà nhân
đức tên là Maria Madalena, vợ quan trấn thủ, đã làm nhiều việc thiện trong tỉnh
Phú Yên, bà còn là một người sáng lập một bệnh viện để chăm sóc tất cả giáo dân
và người tân tòng bị chứng bất trị. Trong đám bệnh nhân có mấy người cùi sẵn
sàng chịu phép rửa tội, để được trong sạch trong linh hồn. Mỗi ngày người ta
giảng dạy những điều cần thiết để chuẩn bị phép bí tích ban ơn thánh, có mấy
người bổn đạo cũ đến giúp và dự vào việc huấn giáo”. [11]
Bà Ngọc Liên chẳng những đã bảo
trợ cho các bệnh nhân mà còn là người bảo trợ cho các dự tòng và tân tòng. Có
bà bảo trợ, các dự tòng và tân tòng mới có thể ra vào được nhà nguyện trong
dinh Trấn Biên. Gương sống đạo, lòng rộng lượng, sự thơm thảo, thởi lởi của bà
bảo trợ chắc hẳn đã để lại trong lòng Anrê Phú Yên một ấn tượng sâu sắc. Chính ấn
tượng nầy đã ảnh hưởng đến những chọn lựa và quyết định định hướng cuộc đời của
Anrê.
Gương sống đạo của cha Đắc Lộ, của
bà Gioanna, của bà Maria Madalêna Ngọc Liên và Chân phước Anrê Phú Yên là một lời
nhắn nhủ chúng ta: Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có bổn phận rao giảng
Tin Mừng, nhưng lời giảng hùng hồn nhất là chính cuộc sống chúng ta.
[1]. Phạm Đình Khiêm,
Người Chứng Thứ Nhất , Tinh Việt Văn Đoàn, Sài Gòn 1959, tr. 56
[2] Sđd, trang 40.
[3] Sđd, trang 42.
[4] Adrien Launay,
Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823, T.II, Paris 2000, p. 191-192.
[5] Mission de
Quinhon, Mémorial no. 58, 31 Oct. 1909, p. 152.
[6] sđd tr.79
[7] sđd tr.92
[8] sđd tr.80
[9] Còn gọi là sông
Kỳ Lộ. Sông chảy qua cầu Ngân Sơn, một nhánh qua cầu Lò Gốm ra
đầm Ô Loan, và một nhánh đến đập Tam Giang rồi ra biển Tiên Châu.
[10] Sđd tr.125
[11] Hành trình
truyền giáo, A. de Rhodes, Hồng Nhuệ dịch, trang 105 -106, tủ sách đại kết, 1994
(Nguồn : BVHTTQN)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét