(Diễn văn Nobel hoà bình của Aung
San Suu Kyi, được trao giải năm 1991- đọc diễn văn ngày 16-6-2012 tại Oslo , Na-Uy)
Thưa Đức Vua và Hoàng hậu, thưa các vị
trong Hoàng gia, thưa các vị khách quý, các thành viên của Ủy ban Nobel Na-Uy,
và các bạn thân mến,
Nhiều năm trước, đôi khi tưởng như đã qua
nhiều cuộc đời, tôi đã từng nghe chương trình phát thanh “Desert Island Discs”
(Bộ dĩa nhạc Hoang Đảo) với con trai nhỏ của tôi là Alexander ở Đại học Oxford . Đó là một chương
trình nổi tiếng (mà theo tôi biết ngày nay vẫn còn đang tiếp tục), ở đó có những
người nổi tiếng từ mọi thành phần trong xã hội được mời để nói về tám đĩa nhạc,
một cuốn sách, bên cạnh Kinh Thánh và bộ tác phẩm của Sheakspeare, với một vật
xa xỉ mà họ muốn có bên mình nếu như họ bị bỏ lại ngoài một hoang đảo. Khi chương
trình kết thúc, cả hai chúng tôi đều thích thú, Alexander hỏi tôi có nghĩ rằng
một ngày nào đó mẹ có thể được mời nói chuyện trong chương trình này không. “Tại
sao lại không?”, tôi đã nhẹ nhàng trả lời cháu. Vì Alexander biết rằng nói
chung chỉ những người nổi tiếng mới tham gia chương trình này, cháu tiếp tục hỏi
tôi với một sự quan tâm thành thật, rằng tôi nghĩ tôi có thể được mời vì lý do
gì. Tôi nghĩ trong giây lát rồi trả lời; “Có thể vì mẹ sẽ được giải Nobel về
văn chương”, và cả hai chúng tôi cùng cười. Dự đoán này nghe có vẻ thú vị nhưng
rất khó thành hiện thực.
(Giờ đây tôi không nhớ nổi tại sao tôi lại
trả lời như thế, có lẽ vì lúc đó tôi vừa đọc một quyển sách của một tác giả được
trao giải Nobel, hay có lẽ vì danh nhân xuất hiện trong chương trình Hoang Đảo
đã là một nhà văn nổi tiếng.)
Năm 1989, khi người chồng quá cố của tôi
(Michael Aris) đến thăm tôi trong kỳ hạn đầu của quản thúc tại gia, anh ấy nói
rằng một người bạn của anh là John Finnis đã đề cử tôi cho Giải Nobel Hòa bình.
Lần đó tôi cũng cười. Ngay lúc đó, Michael có vẻ kinh ngạc, rồi anh nhận ra tại
sao chuyện đó lại làm tôi cảm thấy buồn cười. Giải Nobel Hòa bình? Một viễn ảnh
đẹp, nhưng hoàn toàn bất khả! Vậy thì tôi cảm thấy như thế nào khi tôi thực sự
được trao giải Nobel vì Hòa bình? Câu hỏi này đã được đặt ra với tôi nhiều lần
và đây chắc chắn là dịp thích hợp nhất để xem giải Nobel có ý nghĩa như thế nào
đối với tôi, và hòa bình có ý nghĩa gì đối với tôi.
Như tôi đã nói nhiều lần trong nhiều cuộc
trả lời phỏng vấn, tôi đã nghe tin tức về việc tôi được chọn trao giải Nobel
Hòa bình trên đài phát thanh vào một buổi tối. Tin tức ấy không đến với tôi
cùng với sự ngạc nhiên bất ngờ vì tôi đã được nêu tên như một ứng viên được đề
cử trong một số chương trình truyền hình trước đó vài tuần. Khi thảo bài nói
chuyện này, tôi đã hết sức cố gắng nhớ lại xem phản ứng tức thời của tôi lúc
nghe thông báo ấy là như thế nào. Tôi nghĩ, tôi không còn chắc chắn lắm, là một
cái gì đại loại như: “Ồ! Vậy là họ đã quyết định trao giải thưởng ấy cho tôi”.
Có vẻ như nó không hoàn toàn là thực, vì theo một nghĩa nào đấy tôi đã không cảm
thấy chính tôi đang tồn tại hoàn toàn thực vào lúc đó.
Thường trong những ngày bị quản thúc tại
gia, có cảm tưởng như tôi không còn là một phần của thế giới thực nữa. Đã có một
căn nhà vốn từng là thế giới của tôi, đã có một thế giới của những người khác
cũng không có tự do nhưng đã cùng sống chung nhau trong nhà tù như một cộng đồng,
và có một thế giới của những người tự do; mỗi thế giới đó là một hành tinh khác
biệt theo đuổi đường đi của nó trong một vũ trụ dửng dưng. Điều mà giải Nobel
Hòa bình đã làm là một lần nữa kéo tôi trở về thế giới của con người ngoài khu
vực bị cô lập mà tôi đã sống; là khôi phục cảm giác về thực tại đối với tôi. Điều
này tất nhiên không xảy ra ngay tức thì, nhưng khi ngày tháng trôi qua và tin tức
về những phản ứng đối với giải thưởng đến tôi qua làn sóng phát thanh đã lắng
xuống, tôi bắt đầu hiểu ý nghĩa quan trọng của giải Nobel. Nó đã làm tôi trở về
thực tại một lần nữa; nó kéo tôi trở về cộng đồng con người rộng lớn. Và điều
quan trọng hơn nữa là giải Nobel đã thu hút sự chú ý của thế giới vào cuộc đấu
tranh cho dân chủ và quyền con người ở Miến Điện. Chúng tôi sẽ không bị quên
lãng.
Bị quên lãng. Người Pháp nói rằng chia ly
là đã chết đi một ít. Bị quên lãng cũng chính là chết đi một ít. Đó là sự mất
mát những mối dây liên kết neo giữ chúng ta với nhân loại. Khi tôi gặp những người
Miến Điện là lao động nhập cư và tị nạn trong chuyến thăm gần đây của tôi tại
Thái Lan, nhiều người đã khóc: “Xin đừng quên chúng tôi!”. Họ muốn nói rằng:
“Xin đừng quên cảnh ngộ khốn cùng tuyệt vọng của chúng tôi, xin đừng quên làm
những gì bà có thể làm để giúp chúng tôi, xin đừng quên chúng tôi cũng thuộc về
thế giới của bà” . Khi Ủy ban Nobel trao giải Nobel Hòa bình cho tôi, họ đã nhận
ra rằng sự đàn áp và cô lập của Miến Điện cũng là một phần của thế giới, họ đã
nhận ra sự thống nhất của nhân loại. Bởi vậy đối với tôi nhận giải Nobel Hòa
bình về mặt cá nhân có nghĩa là mở rộng mối quan tâm của tôi về dân chủ và quyền
con người ra khỏi biên giới quốc gia. Giải Nobel Hòa bình đã mở ra một cánh cửa
trong tim tôi.
Khái niệm hòa bình của người Miến Điện có
thể được giải thích như hạnh phúc nảy sinh từ sự chấm dứt những yếu tố ngăn cản
sự hài hòa và lành mạnh. Từ nyein-chan dịch theo nghĩa đen là
cái mát lành đến từ một ngọn lửa đã bị dập tắt. Ngọn lửa của đau khổ và xung đột
đang hoành hành dữ dội khắp nơi trên thế giới. Ở đất nước của tôi, thái độ thù
nghịch và hành động chiến tranh vẫn chưa mất đi ở những vùng xa phía bắc; ở
phía tây, bạo lực của các nhóm chủng tộc và tôn giáo đối lập đưa tới kết quả đốt
phá và giết người chỉ mới xảy ra cách đây ít ngày trước khi tôi bắt đầu cuộc
hành trình đưa tôi đến đây hôm nay. Tin tức về những hành động tàn bạo ở những
vùng khác trên trái đất thì đầy dẫy. Những bài báo tường thuật về nạn đói, bệnh
dịch, sự di tản, thất nghiệp, nghèo khổ, bất công, kỳ thị, thành kiến, cuồng
tín; tất cả đều là tình trạng hàng ngày của chúng ta. Nơi nào cũng có những lực
lượng tiêu cực gặm nhấm nền tảng của hòa bình. Nơi nào cũng có thể thấy sự
phung phí vật chất và nguồn lực con người một cách thiếu suy nghĩ, những thứ cần
cho sự bảo toàn hạnh phúc và sự hài hòa trong thế giới của chúng ta.
Thế chiến thứ nhất tiêu biểu cho sự lãng
phí kinh khủng tuổi trẻ và tiềm năng, một sự hoang phí đầy tội ác đối với những
sức mạnh tích cực trên hành tinh của chúng ta. Bài thơ về kỷ nguyên này có một
ý nghĩa quan trọng đối với tôi khi tôi đã đọc nó lần đầu tiên vào lúc tôi bằng
tuổi những người thanh niên trẻ phải đương đầu với viễn cảnh bị héo tàn trước
khi bừng nở. Một người thanh niên Mỹ chiến đấu với lính lê dương Pháp đã viết
trước khi bị giết năm 1916 là anh ta có thể gặp cái chết của mình “ở một chiến
hào ghê tởm nào đó”, “trên triền dốc đầy vách đá ở một ngọn đồi mòn vẹt”, “vào
nửa đêm ở một thành phố nào đó đang bốc cháy”. Tuổi trẻ và tình yêu, và cuộc sống
đã chết mãi mãi trong những nỗ lực vô nghĩa để chiếm lấy những nơi chốn không
tên, không ai nhớ tới. Và để làm gì? Gần một thế kỷ qua đi, chúng ta vẫn chưa
tìm thấy một câu trả lời thỏa đáng.
Ở mức độ ít bạo động hơn, phải chăng chúng
ta không cảm thấy tội lỗi về sự liều lĩnh, về sự phung phí liên quan đến tương
lai của chúng ta và nhân loại? Chiến tranh đâu phải là đấu trường duy nhất nơi
mà hoà bình bị giết chết. Bất cứ nơi nào sự đau khổ bị làm ngơ thì ở đó sẽ có mầm
mống của xung đột, bởi vì đau khổ làm hạ thấp con người, gây ra cay đắng và làm
người ta nổi giận.
Một điểm tích cực của cuộc sống trong sự
cô lập là tôi có khá nhiều thời gian để suy tư về ý nghĩa của những ngôn từ và
khái niệm mà tôi từng biết và từng chấp nhận trong cả cuộc đời. Là một Phật tử,
tôi đã nghe vềdukha, thường được dịch là sự đau khổ, từ khi tôi là một đứa
trẻ nhỏ. Gần như ngày nào cũng thế, những người lớn, và có khi cũng chẳng phải
là ngừơi già cho lắm, những người quanh tôi thầm thì “dukha, dukha” khi
họ phải chịu đựng nỗi đau đớn thể xác hay nhức nhối tâm can, hay khi họ gặp phải
điều gì đó rủi ro, bực bội nho nhỏ. Tuy nhiên, chỉ trong những năm bị quản chế
tại gia, tôi mới nghiền ngẫm được rõ ràng bản chất của sáu điều gây đau khổ lớn.
Đó là: sinh, lão, bệnh, tử, chia lìa với người thương, và bị bắt buộc phải sống
giữa những người xa lạ không có tình yêu thương. Tôi suy ngẫm về từng thứ gây
đau khổ ấy, không phải trong bối cảnh tôn giáo mà trong đời sống bình thường
hàng ngày của chúng ta. Nếu như đau khổ là một phần không thể tránh trong sự tồn
tại của chúng ta, chúng ta nên cố gắng làm giảm nhẹ nó hết sức có thể theo những
cách thực tiễn nhất. Tôi đã suy đi nghĩ lại về hiệu quả của những chương trình
chăm sóc bà mẹ và trẻ em trước và sau khi sinh, về những điều kiện tương xứng
cho số dân lớn tuổi; về chăm sóc sức khỏe toàn diện; về chăm sóc y tế và nhà tế
bần cho người nghèo. Tôi đặc biệt chú ý đến hai loại đau khổ sau cùng: bị chia
tách khỏi những người thân thương và bị buộc phải sống giữa những người xa lạ
không có tình yêu thương. Những trải nghiệm nào mà Đức Phật của chúng ta có lẽ
đã trải qua trong đời ngài khiến ngài đã bao gồm hai điều này trong sáu điều
đau khổ? Tôi nghĩ về những người bị cầm tù và những người di cư, hay những công
nhân xa xứ và nạn nhân của sự buôn người, nghĩ về những đám đông như những cái
cây bị nhổ bật rễ, những người đã phải xa lìa xứ sở quê hương, bị chia cắt với
gia đình và bạn bè, bị bắt buộc phải sống giữa những người xa lạ chẳng phải bao
giờ cũng chào đón họ.
Chúng ta thật may mắn sống trong thời đại
mà phúc lợi xã hội và trợ giúp nhân đạo được công nhận không chỉ là một điều ước
mà là một sự cần thiết. Tôi có may mắn sống trong một thời đại mà số phận của
những tù nhân lương tâm ở một nơi nào đó trở thành mối quan tâm của mọi người ở
mọi nơi, một thời đại mà dân chủ và quyền con người là điều được công nhận một
cách rộng rãi, cho dù không phải phổ quát trên toàn thế giới, là những quyền tự
nhiên bẩm sinh của tất cả mọi người. Đã bao lần trong những năm bị quản chế tại
gia, tôi đã lấy thêm sức mạnh cho mình từ đoạn văn tôi tâm đắc nhất trong lời
nói đầu bản Tuyên ngôn Phổ quát về Nhân quyền:
…. Hành vi xem thường và chà đạp
nhân quyền đã dẫn đến những hành động dã man làm xúc phạm lương tâm nhân loại.
Việc tiến đến một thế giới trong đó con người được hưởng tự do ngôn luận, tự do
tín ngưỡng, không còn sợ hãi và nghèo khó, phải được tuyên bố như là khát vọng
cao nhất của con người bình thường.
…điều cốt lõi là, để con người không bị bắt
buộc phải sử dụng đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức,
nhân quyền cần phải được bảo vệ bằng những quy định của luật pháp.”
Nếu người ta hỏi tôi vì sao tôi tranh đấu
cho quyền con người ở Miến Điện, những đoạn văn trên đây sẽ đem lại câu trả lời.
Nếu người ta hỏi tôi vì sao tôi tranh đấu cho nền dân chủ ở Miến Điện, thì đó
là vì tôi tin rằng thiết chế dân chủ và sự thực hiện nó là cần thiết để bảo đảm
cho quyền con người.
Trong năm qua đã có dấu hiệu về những nỗ lực
của những người tin vào nền dân chủ và quyền con người đang bắt đầu kết trái ở
Miến Điện. Đã có những thay đổi theo hướng tích cực, đã có những bước đi hướng
về dân chủ hóa. Nếu tôi tán thành chủ nghĩa lạc quan thận trọng thì đó không phải
là vì tôi không có niềm tin vào tương lai mà là vì tôi không muốn khuyến khích
niềm tin mù quáng. Nếu không có niềm tin vào tương lai, không có sự thuyết phục
rằng những giá trị dân chủ và quyền cơ bản của con người không chỉ là điều cần
thiết mà còn là khả dĩ cho xã hội của chúng ta, thì phong trào của chúng tôi đã
không thể đứng vững trong những năm tháng hủy diệt này. Một số chiến binh đã
ngã xuống tại vị trí chiến đấu của họ, số khác rời bỏ chúng tôi, nhưng nhóm nòng
cốt tận tâm thì vẫn mạnh mẽ và gắn bó. Có lúc nghĩ về những năm tháng đã qua,
tôi ngạc nhiên là đã có rất nhiều người vững vàng trong những hoàn cảnh nhiều
thử thách nhất. Niềm tin của họ vào sự nghiệp của chúng tôi không hề mù quáng;
nó dựa trên một sự đánh giá sáng suốt về sức mạnh của chính họ, về sự can trường
và một sự tôn trọng sâu sắc trước những khát vọng của dân tộc chúng tôi.
Nhờ những thay đổi gần đây trong đất nước
tôi mà tôi có mặt ở đây với các bạn hôm nay; và những thay đổi này đã đến bởi vì
các bạn và những người yêu tự do và công lý khác đã đóng góp vào sự nhận thức
trên toàn cầu về hoàn cảnh của chúng tôi. Trước khi tiếp tục nói về đất nước
tôi, tôi xin được nói về những tù nhân lương tâm của chúng tôi. Vẫn đang còn có
những người tù như thế ở Miến Điện. Thật đáng lo ngại khi những người bị giam
giữ nổi tiếng nhất đã được phóng thích, những người vô danh khác sẽ bị lãng
quên. Tôi đứng ở nơi đây là vì tôi đã từng là một tù nhân lương tâm. Khi các bạn
nhìn vào tôi và lắng nghe tôi nói, xin hãy nhớ một sự thật thường được lặp đi lặp
lại rằng một người tù nhân lương tâm đã là quá nhiều. Những người chưa được trả
tự do, những người chưa được tiếp cận với lợi ích của công lý trong nước tôi,
con số đó lớn hơn con số một nhiều lắm. Xin hãy nhớ đến họ và xin hãy làm bất cứ
cái gì có thể để tác động đến việc trả tự do cho họ sớm nhất và vô điều kiện.
Miến Điện là đất nước nhiều sắc dân và niềm
tin vào tương lai của Miến Điện chỉ có thể xây dựng trên nền tảng của tinh thần
hợp nhất. Từ khi giành được độc lập năm 1948, chưa bao giờ có lúc nào chúng tôi
có thể tuyên bố là cả nước đã có hòa bình. Chúng tôi đã chưa thể xây dựng lòng
tin và sự hiểu biết cần thiết để xóa bỏ những nguyên nhân gây xung đột. Niềm hy
vọng đã trỗi dậy qua cuộc ngưng bắn được duy trì từ đầu thập kỷ 90 cho đến năm
2010 thì bị phá vỡ qua một tiến trình vài ba tháng. Một hành động thiếu cân nhắc
đã đủ để phá tan cuộc ngừng chiến đã kéo dài khá lâu. Trong những tháng gần
đây, những cuộc thương lượng giữa chính phủ và các lực lượng sắc tộc tộc đã và
đang có tiến bộ. Chúng tôi hy vọng rằng thỏa thuận ngừng bắn sẽ dẫn đến những
giải pháp chính trị được xây dựng trên nền tảng khát vọng của các dân tộc và
tinh thần hợp nhất.
Đảng Liên hiệp Quốc gia vì Dân chủ của tôi
và tôi đã sẵn sàng và mong muốn giữ bất cứ vai trò nào trong tiến trình hòa giải
quốc gia. Những biện pháp đã được khởi động bởi chính phủ của tổng thống U
Thein chỉ có thể duy trì được với sự hợp tác sáng suốt của tất cả mọi lực lượng
nội bộ: quân đội, các nhóm sắc tộc, các đảng phái chính trị, truyền thông, các
tổ chức xã hội dân sự, cộng đồng doanh nghiệp, và quan trọng hơn hết là công
chúng. Chúng tôi có thể nói rằng cuộc cải cách này là có hiệu quả chỉ khi cuộc
sống của nhân dân chúng tôi được cải thiện và về mặt ấy, cộng đồng quốc tế có một
vai trò không thể thiếu. Viện trợ nhân đạo và viện trợ phát triển, các thỏa thuận
song phương và đầu tư phải được phối hợp và có cân nhắc đến việc bảo đảm tăng
trưởng quân bình và bền vững về xã hội, chính trị và kinh tế. Tiềm năng của đất
nước chúng tôi là hết sức to lớn. Điều này cần được nuôi dưỡng và phát triển để
tạo ra một xã hội không chỉ thịnh vượng hơn mà còn hài hòa hơn, dân chủ hơn, nơi
người dân của chúng tôi có thể sống trong hòa bình, an toàn và tự do.
Hòa bình của thế giới chúng ta là điều
không thể chia cắt. Chừng nào mà những lực lượng tiêu cực còn mạnh hơn những lực
lượng tích cực ở bất cứ nơi đâu, thì tất cả chúng ta đều bị đe dọa. Có lẽ ta có
thể đặt câu hỏi rằng liệu có bao giờ tất cả những lực lượng tiêu cực sẽ bị loại
bỏ? Câu trả lời đơn giản là: “Không!”. Bản chất của con người chứa đựng cả cái
tích cực lẫn cái tiêu cực. Tuy nhiên con người cũng có khả năng tạo nên và làm
mạnh thêm những cái tích cực và làm giảm đến mức thấp nhất hay trung hòa hóa những
cái tiêu cực. Hòa bình tuyệt đối trong thế giới chúng ta là một mục tiêu không
thể đạt được. Nhưng đó là thứ mà chúng ta phải hướng về trong cuộc hành trình
mà chúng ta đang tiếp tục; đôi mắt chúng ta dán chặt vào mục tiêu đó như người
đi trong sa mạc dán mắt vào ngôi sao dẫn đường sẽ đưa anh ta đến nơi giải
thoát. Ngay cả nếu chúng ta không đạt được hòa bình hoàn hảo trên trái đất, bởi
vì hòa bình hoàn hảo là thứ không có trên trái đất này, thì những nỗ lực chung
để giành lấy hòa bình cũng sẽ đoàn kết mọi cá nhân và mọi quốc gia trong lòng
tin và tình hữu nghị; và giúp tạo ra một cộng đồng người an toàn hơn và tử tế hơn.
Tôi dùng từ “tử tế hơn” với sự cân nhắc thận
trọng. Tôi có thể nói đó là sự cân nhắc thận trọng của nhiều năm. Trong những sự
ngọt ngào của nghịch cảnh, và hãy cho tôi nói rằng những thứ ngọt ngào ấy chẳng
có nhiều cho lắm, tôi đã tìm thấy cái điều ngọt ngào nhất, thứ quý giá hơn hết
tất cả, là bài học mà tôi đã học được về giá trị của lòng tốt. Tất cả những sự
tử tế mà tôi đã nhận được, dù nhỏ hay lớn, đều đã thuyết phục tôi rằng lòng tốt
có thể không bao giờ đủ trong thế giới của chúng ta. Tử tế là đáp ứng với sự nhạy
cảm và ấm áp của con người trước hy vọng và nhu cầu của người khác. Ngay cả cái
chạm nhẹ nhất của lòng tốt cũng có thể thắp sáng một trái tim nặng trĩu. Lòng tốt
có thể làm thay đổi cuộc đời của con người. Na-Uy đã cho thấy gương mẫu của sự
tử tế trong việc cung cấp tổ ấm cho những người tha phương trên trái đất, bảo vệ
những người đang bị tấn công, bị cắt đứt chiếc dây neo của an toàn và tự do với
quê hương bản quán của họ.
Ở mọi nơi trên thế giới này đều có những
người tị nạn. Khi tôi đến trại tị nạn Maela ở Thái Lan gần đây, tôi đã gặp những
người tận tụy đang hàng ngày đấu tranh cho cuộc sống của những người tị nạn
thoát khỏi khó khăn chừng nào hay chừng ấy. Họ nói về mối quan ngại của họ đối
với “sự mòn mỏi dần những người tài trợ”, là điều có thể dịch ra thành “sự mòn
mỏi lòng trắc ẩn”. Cụm từ “sự mòn mỏi dần những người tài trợ” tự nó đã diễn đạt
một cách chính xác sự giảm sút nguồn tiền tài trợ. “Sự mòn mỏi lòng trắc ẩn” tự
diễn đạt nó ít hiển nhiên hơn việc giảm sút đi lòng trắc ẩn. Cái này là hậu quả
của cái kia. Liệu chúng ta có thể sống mãi được với việc tự cho phép mình mòn mỏi
đi lòng trắc ẩn? Phải chăng cái giá của việc đáp ứng nhu cầu cho những người tị
nạn lớn hơn cái giá của sự quay lưng, nếu không muốn nói là nhắm mắt lại trước
sự đau khổ của họ? Tôi khẩn khoản kêu gọi những nhà tài trợ trên thế giới trong
việc đáp ứng nhu cầu của những con người này, những người đang tìm kiếm, thường
là cuộc tìm kiếm vô vọng, sự tị nạn trên một đất nước khác.
Ở Maela, tôi đã có những cuộc thảo luận
quý giá với các viên chức Thái chịu trách nhiệm quản lý điều hành tỉnh Tak, nơi
có trại này và nhiều trại khác. Họ cho tôi biết nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn
liên quan đến các trại tị nạn: vi phạm luật bảo vệ rừng, sử dụng ma túy bất hợp
pháp, cất rượu lậu, các vấn đề về kiểm soát bệnh sốt rét, bệnh lao phổi, sốt xuất
huyết và bệnh dịch tả. Những quan ngại của cơ quan hành chánh là chính đáng
cũng như những quan ngại của những người tị nạn. Các quốc gia chủ nhà cũng cần
có sự xem xét và sự giúp đỡ cụ thể để đương đầu những khó khăn liên quan đến phần
trách nhiệm của họ.
Mục tiêu tối hậu của chúng ta phải là tạo
ra một thế giới thoát khỏi tình trạng có những người phải di tản, những người
không nhà và tuyệt vọng, một thế giới mà từng góc nhỏ và tất cả mọi nơi đều là
nơi trú ẩn thực sự mà những người sống ở đó đều có tự do và có năng lực sống
trong hòa bình. Mọi ý nghĩ, mọi lời nói, mọi việc làm góp phần vào cái tốt và
cái lành mạnh sẽ là một sự đóng góp cho hòa bình. Mỗi người và tất cả chúng ta
đều có thể đóng góp như thế. Chúng ta hãy nắm tay nhau tạo ra một thế giới hòa
bình, nơi chúng ta có thể ngủ trong an toàn và thức dậy trong niềm hạnh phúc.
Ủy ban Nobel đã kết luận tuyên bố của họ
ngày 14 tháng 10 năm 1991: “Bằng cách trao giải Nobel Hòa bình cho Aung San Suu
Kyi, Ủy ban Nobel Na-Uy muốn vinh danh người phụ nữ này vì những nỗ lực không mệt
mỏi của bà, và thể hiện sự ủng hộ của giải Nobel đối với rất nhiều người trên
khắp thế giới đang tranh đấu để đạt đến dân chủ, quyền con người và hòa giải
dân tộc bằng những phương tiện hòa bình”. Khi tôi tham gia phong trào dân chủ ở
Miến Điện chưa bao giờ tôi tự nghĩ rằng tôi có thể là người nhận bất cứ giải thưởng
hay vinh dự nào. Cái giải thưởng mà chúng tôi đang làm hết sức mình cho nó, đó
là tự do, an toàn, và chỉ là một xã hội mà con người có thể nhận ra được tất cả
tiềm năng của mình. Vinh dự nằm trong những nỗ lực của chúng tôi. Lịch sử đã
trao cho chúng tôi cơ hội để cống hiến những gì tốt nhất của chúng tôi cho một
sự nghiệp mà chúng tôi tin vào. Khi Ủy ban Nobel chọn vinh danh tôi, con đường
mà tôi đã chọn cho ý chí tự do của riêng tôi sẽ trở nên một con đường ít cô đơn
hơn để theo đuổi nó. Vì điều ấy tôi xin cảm ơn Ủy ban và tất cả mọi người trên
thế giới này, vì sự hỗ trợ của họ đã làm mạnh thêm niềm tin của tôi trên con đường
chung tìm kiếm hòa bình. Xin cảm ơn quý vị.
Người dịch: Hoa Phượng
Nguồn: http://www.nobelprize.org/nobel_prizes/peace/laureates/1991/kyi-lecture_en.html
(Theo BVHTTQN)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét