Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Sáu, 2 tháng 10, 2020

Tài liệu liên quan tới cuộc vận động cải cách chữ quốc ngữ ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX

  



TÀI LIỆU LIÊN QUAN TỚI CUỘC VẬN ĐỘNG CẢI CÁCH CHỮ QUỐC NGỮ Ở VIỆT NAM VÀO ĐẦU THẾ KỶ XX

Chuyển ngữ: Nguyễn Nghị và Cao Tự Thanh

WHĐ (1.10.2020) – Chữ quốc ngữ theo mẫu tự Latin, do các thừa sai dòng Tên thuộc tỉnh dòng Lisbon (Bồ Đào Nha) đã sáng chế khi tới Việt Nam vào đầu thế kỷ XVII để làm phương tiện liên lạc trong công cuộc truyền đạt Công giáo cho người Việt Nam. Chữ quốc ngữ, như vậy, khởi đầu là một phương tiện được dùng trong công cuộc truyền giáo.

Chữ quốc ngữ này, với thời gian, đã trở thành một thứ tiếng thông dụng của người Việt Nam, công giáo hay không công giáo, và từ 1930 trở thành chữ viết chính thức của người Việt.

Trước đó, vào đầu thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa Pháp đề xướng cuộc vận động cải cách chữ quốc ngữ ở Việt Nam. Nhưng cuộc vận động này đã thất bại. Một số tài liệu được giới thiệu sau đây cho thấy một cách gián tiếp lý do của sự thất bại này.

Tập tài liệu này gồm, ngoài một bản thảo văn thư mang số Z21G đề ngày 11. 4. 1907 của Giám đốc Tổng nha Học chính gửi Toàn quyền Đông Dương và một bản thảo văn thư cũng của quan chức này gửi các Chủ tịch Hội đồng Cải cách Học chính địa phương còn có một tập sách nhỏ nhan đề Textes et Documents relatifs à la réforme du Quốc ngữ (Các văn bản và tài liệu liên quan tới việc cải cách chữ Quốc ngữ), F. H. Schneider, Imprimerie Typo-Lithographique, Hà Nội, 1907, tất cả đều được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại (Centre d’Archive d’Outre-mer - CAOM) ở Aix-en-Provence, Cộng hòa Pháp, trong hồ sơ mang ký hiệu GGI 2625.

Ngoài bản thảo hai văn thư là tài liệu đánh máy, quyển Textes et Documents relatifs à la réforme du Quốc ngữ là một ấn phẩm lưu hành nội bộ của Tổng nha Học chính Đông Dương, vì thế nên ít được phổ biến rộng rãi. Nhận thấy nhiều điểm trong nội dung khoa học và quản lý nhà nước về vấn đề chính tả của nó vẫn còn những giá trị thời sự nhất định, nên chúng tôi giới thiệu ở đây phần chủ yếu trong tập sách để những người quan tâm biết thêm về cách suy nghĩ và lối ứng xử của nhiều người nước ngoài hơn một trăm năm trước đối với chính tả tiếng Việt.

Bản dịch tiếng Việt của tập tài liệu này đã được Nguyễn Nghị thực hiện với sự hợp tác của nhà Hán Nôm học Cao Tự Thanh và đã được in trong phần Phụ lục của cuốn sách mang tựa đề I và Y trong chính tả tiếng Việt, của Cao Tự Thanh, Nxb Văn Hóa – Văn Nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh - 2014.

 

Phủ Toàn quyền Đông Dương

Giám đốc Tổng nha Học chính
Văn phòng Tổng hợp
Số Z21G
Trích yếu: về việc cải cách chữ Quốc ngữ

 

Cộng Hòa Pháp
Tự do – Bình đẳng – Huynh đệ
***
Hà Nội, ngày 11 tháng Tư 1907

 

Tổng Giám đốc Tổng nha Học chính Đông Dương

Gửi ông Toàn quyền Đông Dương tại Hà Nội

Kính gửi ông Toàn quyền,

Tôi lấy làm vinh hạnh gửi kèm theo thư này tập sách nhỏ “Các văn bản và tài liệu liên quan tới việc cải cách chữ Quốc ngữ”, tập sách mà ông đã rất muốn cho phép xuất bản ở Sài Gòn.

Tôi gửi kèm ở đây bức thư tôi dự định viết cho các vị Chủ tịch Hội đồng Cải cách Học chính địa phương dùng làm cơ sở cho các cuộc bàn luận sẽ được tổ chức sớm về cuộc cải cách.

Ký tên (không rõ).

 

Gửi ông Chủ tịch Hội đồng Cải cách Học chính địa phương

Trích yếu: về việc cải cách chữ Quốc ngữ

Ông Chủ tịch,

Ông và các thành viên của Hội đồng Cải cách Học chính địa phương sẽ nhận được từ người phụ trách cơ quan Học chính tập sách nhỏ vừa được xuất bản với nhan đề “Các văn bản và tài liệu liên quan tới việc cải cách chữ Quốc ngữ”.

Tập sách này có mục đích dùng làm cơ sở cho việc thảo luận cặn kẽ về việc cải cách do Hội đồng Cải cách Học chính Đông Dương đề ra trong phiên họp năm 1906. Ông Chủ tịch Hội đồng và tôi mong muốn quý vị đưa vấn đề quan trọng này vào chương trình nghị sự càng sớm càng tốt, vì việc xuất bản các sách giáo khoa mới nên phải có giải pháp cho vấn đề này trong thời gian ngắn nhất. Quý vị phải kết thúc công việc này trước ngày 1. 6, tức thời điểm để đại biểu của mỗi Hội đồng sẽ họp với nhau để có sự thỏa thuận cuối cùng về việc cải cách chữ Quốc ngữ.

Kính mong ông Chủ tịch nhận nơi đây sự kính trọng cao nhất của tôi.

Phủ Toàn quyền Đông Dương
Tổng Giám đốc Nha học chính
--------------------------------------
Textes et Documents relatifs à la réforme du Quốc ngữ
(Các văn bản và tài liệu liên quan tới việc cải cách chữ Quốc ngữ)
Hanoi 1907



I. Hội nghị quốc tế nghiên cứu về Viễn Đông lần thứ nhất (Hà Nội, 1902)

Tiểu ban cải cách việc phiên âm chữ quốc ngữ

Trích Biên bản phân tích các phiên họp (Hanoi, F. H. Schneider, 1903), tr. 126 và tiếp theo.

Ông Pelliot trình bày báo cáo của Tiểu ban cải cách việc phiên âm về dự án cải cách chính tả Annam, do các ông Babonneau và Simonin đệ trình.

Tiểu ban đã họp vào lúc 11 giờ ngày 6. 12, dưới quyền chủ tọa của ông Chéon. Có mặt: các ông Babonneau, Cadière, Finot, Gerini, Hoàng Trọng Phu, Pelliot, Simonin.

Các thành viên của Tiểu ban đã đồng ý với nhau là phải tuân thủ ba quy tắc sau đây trong khi làm việc:

1. Chúng ta phải cố sức trong mức có thể đưa ra một giá trị duy nhất cho một chữ và luôn luôn diễn tả một âm (son) bằng cùng một chữ. Do đó, cần phải, chẳng hạn, bỏ việc sử dụng chữ ở đầu trong từ gang hay từ gi, bởi vì hai chữ đầu này đọc rất khác nhau, và cũng phải ghi bởi cùng một chữ âm đầu của ca và ke, bởi vì hai cách viết này có cùng một âm.

2. Cách ghi sử dụng cho tiếng Annam nên gần với các cách ghi thường được dùng cho các ngôn ngữ khác.

3. Vì con số các tác phẩm, trong đó có một số rất tốt, đã được xuất bản với cách ghi cũ, nên quan tâm đến các thay đổi do hai quy tắc trên ấn định một cách dứt khoát.

Phần trình bày về các nguyên âm được đánh giá là tốt, dù sao cũng không có nhu cầu nghiêm trọng phải chỉnh sửa một cách sâu sắc. Tuy nhiên, Hội đồng cho rằng dấu mũ của â đem lại cho nguyên âm này một giá trị hoàn toàn khác với giá trị nó đem lại trong ô và trong ê, do đó, nên thay â bằng a’. Hội đồng cũng cho rằng phải bỏ hẳn thói quen mà vài tác giả vẫn có, trái với phương pháp của linh mục de Rhodes, là lấy thay trong một số trường hợp (ky, ly, my trong các bản đồ) mà không có gì biện minh được. Vấn đề dùng trong các từ như nguyên, thuyêt sẽ được gác lại cho đến khi có được thông tin rộng rãi nhất...

Về các phụ âm, Tiểu ban đề nghị những thay đổi sau:

1. -c (hay c) sẽ có giá trị của ch hiện nay. Ch hiện nay gần với âm ngạc điếc (palatale sourde) các nhà ngữ học thường phiên là (hay c), ngoài ra, đây còn là một âm nổ không phát âm bật hơi (explosive non aspirée) và Hội đồng chỉ dành chữ cho duy nhất các trường hợp chữ này ghi nhận một sự phát âm bật hơi (aspiration). Cuối cùng, chữ hiện nay được dùng trong các từ như ca, và ở đó nó có cùng giá trị như của từ ke, sẽ bị bỏ và được thay thế bằng k, như vậy, chúng ta sẽ viết , (cá), cợ (chợ), khác, (khách, lạ)

2. -d không có gạch ngang sẽ có giá trị bình thường của trong tiếng Pháp; đ hiện nay, được viết có gạch ngang, sẽ không còn. Âm hiện nay được phiên bởi sẽ được phiên thành z.

3. -g luôn giữ giá trị của âm họng kêu không phát âm bật hơi (gutturale sonore non aspirée), ngay cả khi đứng trước i, bởi vậy, chúng ta sẽ viết ge (ghe) chứ không phải là ghe, gi (ghi), chứ không phải ghi. Còn về gi hiện được dùng để diễn tả âm ngạc kêu (palatale sonore ) tương ứng với (ch cũ) điếc của từ cợ (chợ), sẽ được thay thế bởi j, chúng ta sẽ viết jả, (giả), chứ không phải giả.

4. -luôn có giá trị của một phát âm bật hơi (aspiration), sẽ không còn xuất hiện trong ghe, từ nay sẽ viết là ge; trong từ chợ, được viết là cợ; khách, được viết là khác; nhà, viết thành ña, nhưng ngược lại, sẽ còn được giữ trong phép (luật), vì ph ở đầu vẫn còn duy trì một phát âm bật hơi nhẹ và không hoàn toàn tương đương với của tiếng Pháp.

5. -thay cho âm ngạc kêu (gutturale sonore) gi, chẳng hạn: jả thay vì giả.

6. -được dùng như hiện nay và thay chữ hiện nay khi chữ này có giá trị của k, do đó, viết ká thay vì .

7. -nh hiện nay, ở đầu hay ở cuối, chỉ diễn tả một âm, không có phát âm bật hơi, sẽ được phiên thành ñ, ñà chứ không phải nhàbáñ (bánh), chứ không phải bánh.

8. -ph sẽ được giữ lại bởi vì âm được diễn tả không đơn thuần là âm răng môi (dento-labial) viết thành trong tiếng Pháp, và vẫn giữ một chút phát âm bật hơi nào đó.

9. -q, không có âm nào khác ngoài âm ở đầu, sẽ không còn, và được thay thế bằng k. Sự phân biệt hiện nay giữa cua và qua có lý do của nó: trong cua, dấu được đặt trên u, trong qua, dấu đặt trên a.

Nhưng không có lý do nào để đánh dấu vị trí khác biệt này của dấu bằng cách thay đổi của âm đầu; ngược lại, duy trì chữ khi nó đóng vai trò nguyên âm được nhấn mạnh là điều tự nhiên (kua thay vì cua hiện nay) và sẽ được thay thế nó bằng bán nguyên âm khi nó thực sự là một bán nguyên âm (kwa thay vì qua).

10. -thích hợp trong cách ghi hiện nay với âm xuýt gió (sifflante cérébrale); do đó, tốt hơn nên được thay thế nó bằng (s có dấu nặng ở dưới), khi không có chữ này, chúng ta có thể sử dụng hiện nay.

11. -x hiện nay diễn ta một âm rất gần với âm ngạc xuýt. Do đó, tốt hơn, nhưng không cần thiết Hội đồng phải nhất trí theo ý kiến này, là thay thế bằng c (có dấu phẩy ở dưới), sẽ cho thấy rõ hơn cách đọc.

12. -z sẽ thay thế không có gạch ngang hiện nay, nhưng không muốn gán cho một giá trị tuyệt đối cố định mà chính âm Annam của nó không có.

Hệ thống ký hiệu các giọng không dẫn đến một nhận xét nào riêng biệt. Bởi vậy, Hội đồng phiên đề nghị với quý vị ước nguyện sau:

Thưa Hội nghị,

Xét tính cách tiện lợi, cả về mặt thực tiễn lẫn khoa học, của việc phiên âm tiếng Annam một cách đơn giản hơn và hợp lý hơn là cách phiên hiện nay đang được áp dụng,

Chấp thuận báo cáo của Hội đồng phiên âm và bày tỏ ước nguyện các điều chỉnh được đề nghị được Nhà nước toàn quyền Đông Dương phê chuẩn.

Đại úy Bonifacy lên tiếng chống lại dự án của Hội đồng với hai loạt phản đối: 1. Về phương diện khoa học, ông không cho rằng hệ thống của Hội đồng có những lợi điểm đáng kể trên cách viết được chấp nhận hiện nay. Các giá trị của các chữ vẫn không kém ước lệ hơn, nhưng trong khi chữ quốc ngữ dựa chủ yếu trên các cách đọc của các ngôn ngữ Latin và ngày nay vẫn có thể tìm thấy được trong tiếng Italia, tiếng Provencal, Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha, thì các cải cách của Hội đồng, đặc biệt chữ w, đúng hơn, cũng chỉ là một sự vay mượn của phép viết của Anh, ông không cho việc thay đổi này là một tiện lợi, và chẳng làm cách viết đơn giản hơn chút nào. Ngoài ra, chữ ñ mà Hội đồng đề nghị thay cho cụm chữ nh sẽ có cái bất tiện là làm cho dấu ngã này có hai giá trị khác nhau, bởi vì dấu ngã cũng còn được đặt trên các nguyên âm để chỉ một trong các giọng của tiếng Annam. 2. Về phương diện thực tiễn, quả là rất khó làm cho những người đã học cách viết cũ quen được với cách viết chính tả mới, nhất là khi họ lại là những người Annam; như vậy, để cách viết mới có kết quả, người ta sẽ phải ấn định cách viết này trong các cơ quan hành chánh; và thế là nhiều người bản xứ vốn đã bỏ nhiều thời gian để học cách đánh dấu cũ, bất thình lình bị lôi về lại điểm xuất phát, buộc phải bắt đầu lại việc học lại cách viết hay bỏ cơ quan.

Ông Pelliot trả lời là Hội đồng không xét đến khía cạnh viết theo tiếng Latin hay anglo-saxon, mà chỉ tìm cách thống nhất một cách tối đa với các cách viết được nhiều các nhà ngữ học nhất chấp nhận. Vả lại, dùng để diễn tả âm ngạc điếc lại gần với một số giá trị của trong tiếng Ý hơn là giá trị của nó trong tiếng Anh. Về tình trạng dấu ngã sẽ có hai giá trị, xem ra không thể có một chút lẫn lộn nào giữa dấu ngã đặt trên một phụ âm, do đó không bao giờ có thể gợi lên một â giọng, và dấu ngã nhấn mạnh đặt trên một nguyên âm, chữ ñ, ngoài việc được dùng trong các cách ghi chép khoa học, nó vẫn còn được dùng trong tiếng Tây Ban Nha. Cuối cùng, việc điều chỉnh cách viết tiếng Annam hẳn không thể không tạo nên một sự khó chịu nhất thời cho những người đã học cách viết cũ, nhưng cũng đúng là, mặc dù có sự dè dặt tương đối của Hội đồng, các thay đổi kể ra cũng khá nhiều và quan trọng, nhưng quả là quá lời khi nói rằng những người đã học chữ quốc ngữ cũng sẽ phải vất vả như vậy để làm chủ cách viết mới; để hiểu được cách viết mới sẽ là công việc của mấy tiếng đồng hồ, và để sử dụng một cách không mấy khó khăn sẽ là công việc của mấy ngày. Vả lại không có gì dễ dàng hơn là ấn định một thời hạn nào đó cho phép cả hai hệ thống cùng tồn tại. Một cuộc cải cách như vậy đã có thể xảy ra, đó là cuộc cải cách thay thế trong ngành hóa học cách ghi nguyên tử (notation atomique) cho hệ thống các tương đương.

Linh mục Cadière tuyên bố là về phương diện khoa học, cách viết do Hội đồng đề nghị chắc chắn là cao hơn cách viết thông dụng, nhưng về phương diện thực tiễn, việc cải cách chữ quốc ngữ tạo nên những khó khăn khá trầm trọng để phải từ bỏ mọi ý định cải cách. Chính từ quan điểm này, linh mục đưa ra 6 vấn nạn: 1. Chúng ta không thể loại bỏ các khó khăn gắn với cách viết chữ Annam và mọi hệ thống viết đều chỉ có thể là không hoàn hảo. 2. Không nên gán cho chữ quốc ngữ những khiếm khuyết gắn với chính ngôn ngữ Annam. 3. Nếu hệ thống do Hội đồng đề nghị có loại bỏ được một số khó khăn, thì ngược lại, nó lại tạo nên một số khó khăn khác. 4. Việc cải cách chữ quốc ngữ sẽ làm cho một số lớn sách không đọc được, như các từ điển của Giám mục Taberd và của linh mục Génibrel, Le Cours và Sưu tập các văn bản của ông Chéon. 5. Một số lớn người Annam, vốn không biết chữ Hán và không biết kiểu viết nào khác ngoài quốc ngữ, sẽ rơi vào tình trạng mù chữ. 6. Một số khổng lồ vật liệu nhà in sẽ trở nên vô dụng.

Ông Babonneau cho rằng chữ quốc ngữ có những điểm bất thường không sao biện minh được và chướng đến độ nhất thiết phải có một số điều chỉnh. Chẳng hạn, việc dùng chữ đ có gạch ngang để có tác dụng của phụ âm thông thường, và chữ đơn giản để có tác dụng của một phụ âm vốn chẳng có quan hệ gì với chữ thông thường, sẽ làm nản lòng những người mới bắt đầu và hoàn toàn không thể chấp nhận được.

Ông Chéon, chủ tịch Hội đồng phụ trách chữ viết, tuyên bố : mặc dù là tác giả của nhiều công trình trong đó ông sử dụng chữ quốc ngữ, ông cũng xác tín, qua chính thực tiễn, về sự cần thiết phải cải cách và việc chấp nhận dự án của Hội đồng là điều đáng làm về mọi phương diện.

Ông Nocentini nhận xét là tất cả các vấn nạn chống lại dự án của Hội đồng đều nảy sinh từ những mối quan tâm thuộc lãnh vực thực tiễn, và tự hỏi liệu dự án có thể tập hợp được mọi phiếu bầu, trong điều kiện là chỉ liên quan, ít ra là tạm thời, tới việc sử dụng trong lĩnh vực khoa học mà thôi.

Ông Maitre gợi lại một số vấn nạn do linh mục Cadière nêu ra. Các điều chỉnh được đề nghị có ảnh hưởng rất hạn chế tới vật liệu in ấn. Các điều chỉnh này cũng không đẩy người Annam vốn chỉ biết có chữ quốc ngữ vào lại tình trạng mù chữ, mà chỉ buộc họ phải làm thêm một công việc phụ kéo dài mấy tiếng, quá lắm là mấy ngày.

Các điều chỉnh này cũng không làm các sách bằng chữ quốc ngữ rơi vào tình trạng không đọc được hơn là việc chấp nhận hệ thống của ông Visière đối với các công trình của các nhà Hán học trước đó. Tuy nhiên, vì việc chấp nhận hệ thống mới xem ra phải đương đầu trong việc sử dụng hiện tại với những phản đối dai dẳng, có lẽ sẽ khôn ngoan hơn nếu chúng ta chấp nhận đề nghị của ông Nocentini là chỉ nhắm đến việc sử dụng trong lĩnh vực khoa học.

Ông Chủ tịch tuyên bố là Hội đồng đã được hướng dẫn trước tiên bởi ý muốn đưa ra một hệ thống có thể dung hòa các đòi hỏi của logic với những đòi hỏi của thực tiễn và có thể có giá trị như một hệ thống duy nhất. Do đó, Hội đồng đã tỏ ra rất là vừa phải trong các đề nghị của mình.

Bá tước Pullé cho rằng chắc chắn sẽ là đáng tiếc nếu có hai hệ thống tồn tại song song: tuy nhiên, kinh nghiệm cũng cho thấy là một hệ thống có tính khoa học và mang tính lý tính, rốt cuộc, sẽ luôn tự khẳng định mình và một cách rất nhanh chóng. Bởi vậy chúng ta chẳng việc gì phải lo ngại khi chấp nhận đề nghị của ông Nocentini.

Linh mục Cadière nhắc lại là ông chỉ nêu lên những vấn nạn hoàn toàn thuộc lĩnh vực thực tiễn chống lại dự án. Các vấn nạn này sẽ không còn nếu Hội nghị đề nghị một cách viết thuần túy có tính khoa học. Về điểm này, dự án của Hội đồng đánh dấu một bước tiến bộ hiển nhiên; nhưng xuất phát từ ước muốn dọn đường đi đến một hệ thống duy nhất và dành mọi nhượng bộ có thể cho cách viết thông thường, thì hệ thống này chưa đủ và cần phải được điều chỉnh. Nó chỉ có thể được sử dụng làm cơ sở cho một dự án còn phải được đào sâu và dứt khoát hơn nữa.

Đại tá Gerini và ông Pelliot ủng hộ ý kiến linh mục Cadière đưa ra.

Sau các cuộc tranh cãi tạo ra bởi bản văn tiên khởi, Hội đồng phụ trách việc viết chữ quốc ngữ cho đọc ước nguyện sau đây:

Hội nghị, xét lợi ích về mặt khoa học mà một cách viết tiếng Annam đơn giản và có lý tính đem lại, yêu cầu Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp ấn định, để sử dụng trong lĩnh vực khoa học, một hệ thống có thể đáp ứng mọi điều kiện mong muốn, trên các cơ sở do Hội đồng đề nghị.

Văn bản được chỉnh lại như trên đây đã được tất cả các thành viên bỏ phiếu chấp nhận.

II. Hội đồng Cải cách Học chính địa phương Khóa họp năm 1906 

Trích biên bản các phiên họp (Hà Nội, L. Gallois 1906), tr. 47 và 50.

A. Phiên họp thứ nhất ngày 21. 4. 1906

Chương trình nghị sự là nghiên cứu việc cải cách chữ quốc ngữ.

Ông Nordemann, Chủ tịch Hội đồng, trình bày là vào lúc chúng ta soạn thảo một số lớn sách giáo khoa bằng tiếng Annam, thì việc nghiên cứu vấn để cải cách chữ quốc ngữ là điều cần thiết. Ông Chủ tịch ôn lại lịch sử vấn đề và nhắc lại là từ các tác phẩm của linh mục A. De Rhodes, xuất bản vào giữa thế kỷ XVII, chữ quốc ngữ đã trải qua nhiều đợt chỉnh sửa. Từ điển Taberd (1838) đưa ra một cách viết rất khác. Các từ điển của La Liraÿe và Theurel (1877) cũng có các cách ghi riêng của mình. Hội nghị các nhà Đông phương học tại Hà Nội năm 1902 đã đưa ra một số điều chỉnh; các quyết định của Hội nghị được sử dụng làm nền tảng cho Hội đồng nghiên cứu. Hội đồng đã nhóm họp bốn lần và đã đi đến một thỏa thuận gần như hoàn toàn.

Ông Chủ tịch nhắc lại rằng Hội đồng của Hội nghị tại Hà Nội do một người Annamitisant được mọi người đánh giá cao là ông Chéon ngồi ghế chủ tọa.

Ông Nordemann giải thích rằng Hội đồng đã quyết định trong dự án của mình để ý tới tính cách ích lợi của việc Pháp hóa và của cả sự cần thiết phải quy tắc hóa và đơn giản hóa cách thức ghi chép này. Các cải cách được đề nghị nhắm tám yếu tố, nhưng hai trong tám yếu tố này đã không được sự nhất trí của Hội đồng.

Cách viết êi sẽ thay thế cho ây, như trong A. de Rhodes.

Mọi người nhất trí.

Chữ ă ngắn (bref) sẽ có dấu ngắn (signe de la brève) ở tất cả chỗ nào có ngắn, kể cả do vị trí.

8 chấp nhận chống lại 5.

Trong các nguyên âm đôi (diphtongues) trong đó chữ thứ hai là hay y, chúng ta sẽ luôn luôn viết là i. Tuy nhiên, ông Nordemann đề nghị là uy và ui phải khác biệt nhau.

Ông Maitre lưu ý là trong trường hợp này việc sử dụng uy sẽ không biện minh được, và tốt hơn hết là viết ui để cho thấy là chữ được tách biệt hẳn.

Ông Chủ tịch ủng hộ các nhận xét này, khi lưu ý rằng việc chấp nhân uy sẽ khiến cách viết không sử dụng được trong các công trình khoa học.

Ông Nordemann nhấn mạnh rằng đối với việc chấp nhận uy, chữ với dấu tréma có nhiều dấu khác nhau không có trong bộ chữ cùng cỡ.

Ông Maitre nói là sẽ không có bất tiện lớn khi đánh dấu trên u.

Các ông Tissot và Bouzat phát biểu cũng ý kiến này.

Hai ý kiến này đã không hội đủ đa số phiếu. Đề nghị được gác lại.

B. Phiên họp thứ hai ngày 21. 4. 1906

Ông Chủ tịch trình bày: vì Đại học đã tổ chức phiên họp khoáng đại và lấy dự án làm nội dung cho một cuộc bàn luận, Hội đồng có thể chuyển sang việc xem xét các vấn đề thuộc lĩnh vực khoa học: trước tiên, chúng ta có thể trở lại vấn đề chữ quốc ngữ.

Mọi người đồng ý về đề nghị của ông Bùi Đình Tá chấp nhận cách viết do ông Maitre đưa ra, trừ việc tréma sẽ được thay thế bởi có dấu mũ.

Ông Nordemann sau đó đọc lại toàn bộ các đề nghị sau đây, liên quan đến các cải cách chữ quốc ngữ:

Các nguyên âm: â sẽ viết là ê trước i.

ă sẽ có thêm dấu ngắn ở tất cả các nơi nó là âm ngắn.

sẽ viết là trong tất cả các trường hợp.

bên trong các từ sẽ viết là y. Chúng ta sẽ viết là trong nguyên âm đôi ui.

Các phụ âm: đ sẽ viết là d.

c, k, q, sẽ viết là trong tất cả các từ có phụ âm này,

các trường hợp đặc biệt: cua = kua; qua = koa.

d, gi, sẽ viết là j.

x, sẽ viết là (có dấu phẩy ở dưới).

sẽ không còn khi đứng sau hay ng trước hay e.

Quy tắc yêu cấu đặt dấu trên hay dưới nguyên âm nổi trội (voyelle dominante) phải được tuân thủ một cách nghiêm nhặt.

Các đề nghị này đã được mọi người chấp nhận.

III. Quyết định ngày 16.5.1906 của Toàn quyền Đông Dương về việc mở một cuộc thi soạn sách giáo khoa

(Trích đoạn liên quan đến chính tả của các sách viết bằng chữ quốc ngữ)

Điều 8. Các sách giáo khoa được soạn bằng tiếng Annam theo mẫu tự latinh (quốc ngữ ) phải chú ý tới cách viết chính tả sau đây:

Các nguyên âm: âm được phiên một cách không chính xác thành â sẽ được viết là ê trước i;

ă sẽ có dấu ă ở bất cứ vị trí nào khi nó là nguyên âm ngắn;

sẽ luôn được viết là i; và i có dấu mũ trong nguyên âm đôi ui;

(bán nguyên âm của i) sẽ được viết như vậy ở bên trong các từ;

Các phụ âm: đ sẽ viết thành d;

c, k, q sẽ đồng loạt được viết thành k;

Trường hợp đặc biệt: cua sẽ viết là kua và qua sẽ viết là koa;

d, gi sẽ được viết là j;

sẽ viết là (có dấu phẩy ở dưới);

sau hay ng (âm họng kêu hay mũi/gutturale sonore ou nasale) trước hay sẽ bị bỏ;

Quy tắc về việc đặt dấu ở trên hay dưới nguyên âm nổi trội phải được tuân thủ một cách nghiêm ngặt.

IV. Những bài viết liên quan tới việc cải cách chữ quốc ngữ

A. Các bài viết của linh mục Cadière

Đăng trên Avenir du Tonkin trong các số từ 24. 9 đến 17.10. 1906

Trong chừng mực có thể, các quyết định Hội đồng Cải cách Học chính địa phương, nhìn chung, đã làm hài lòng những ai quan tâm đến việc nâng cao trình độ luân lý và tinh thần của người Annam và quan tâm đến sự thịnh vượng của thuộc địa bao nhiêu thì cuộc cải cách của Hội đồng này đối với việc phiên âm chữ quốc ngữ lại đã làm ngạc nhiên bấy nhiêu những người đang nghiên cứu tiếng Annam. Tôi nghĩ, những ai có chút ảnh hưởng trong các vấn đề này đều có bổn phận lên tiếng và chỉ ra cho thấy cuộc cải cách này không có nền tảng và tồi tệ đến mức nào, hầu soi sáng “tôn giáo ” của các thành viên của Hội đồng Cải cách Học chính địa phương: danh dự của họ cũng như danh dự của các thành viên của Học chính và của cả thuộc địa đều liên quan.

Vấn đề cải cách chính tả chữ quốc ngữ không phải là mới. Nó đã có từ thời hệ thống ra đời. Chúng ta có thể thấy, trong các công trình cổ do các thừa sai ấn hành, trong các thủ bản, là cách viết này đã có thay đổi, đã được cải cách qua các thế kỷ. Cách viết thông dụng khi người Pháp tới Đông Dương không hoàn hảo. Nhiều tiếng nói có thẩm quyền, các linh mục Legrand de la Liraye, Lesserteur, ông Aymonnier, đã đưa ra những phê phán đúng đắn, đã đề ra những cải cách. Cách đây vài năm, vấn đề lại được nêu lên lại. Tại Hội nghị các nhà Đông phương học tại Hà Nội năm 1902, một Hội đồng do ông Chéon chủ tọa, đã xem xét vấn đề này. Người ta đã xem xét tất cả mọi phê phán có hiểu biết đã được đưa ra cho tới thời điểm này, người ta tìm cách thỏa mãn mọi ước muốn chính đáng đã được nêu lên, của người bảo thủ cũng như của những người có quan niệm lật đổ. Dự án được đưa ra và được chấp nhận trên nguyên tắc chưa tuyệt đối hoàn hảo. Dự án không thỏa mãn tất cả mọi người. Nhưng dự án đã được những người có thẩm quyền trong vấn đề tán thành. Chính những người chống lại cũng nhìn nhận dự án có một giá trị lớn về phương diện khoa học. Và chúng ta có thể hy vọng những thành kiến sẽ dần dần biến mất, các cản trở sẽ được vượt qua, những phần chi tiết còn khiếm khuyết sẽ được hoàn chỉnh, sớm muộn người ta cũng sẽ chấp nhận một hệ thống latinh hóa phục vụ cho người thông thái cũng như cho những người muốn học tiếng Annam chỉ để biết và nói.

Nhưng niềm hy vọng này đã tiêu tan. Cuộc cải cách do Hội đồng Cải cách Học chính địa phương chấp nhận đã không thỏa mãn các ước muốn chính đáng người ta đã nêu lên. Cuộc cải cách đã thần thánh hóa những lý thuyết hoàn toàn sai lầm. Nó gây nên sự lộn xộn trong ngôn ngữ và trong cách viết, và do đó có hại cho việc học tiếng Annam, nó chấp nhận những dị thường, nó giải quyết không tốt bằng hệ thống cũ vô số các sự khác nhau tinh tế của ngôn ngữ. Xét về phương diện khoa học, cũng như thực tiễn và sư phạm, cuộc cải cách này quả là một bước thụt lùi.

Phê phán và đánh giá của tôi có thể là cường điệu. Những người trong số các đọc giả của tôi quan tâm tới các vấn đề này và có kiên nhẫn để đọc tới cuối phần tranh luận của tôi, dù vất vả đến đâu, sẽ nhận thấy là phê phán này là đúng và đánh giá như vậy là chính xác.

Chúng ta hãy đi vào chi tiết các điều chỉnh đã được chấp thuận.

                1. “Âm được phiên một cách không chính xác là â sẽ được viết là ê khi đứng trước i”

Trước đây, người ta viết bây, cây, dây, lây, mây, vân vân, từ nay, sẽ viết là bêi, kêi, lêi, mêi, vân vân.

Chúng ta sẽ để một bên phụ âm của các hình thức khác nhau này, bởi nó không dính dáng gì ở đây, và chúng ta sẽ chỉ xét đến âm của nguyên âm. Âm này có hai dạng được cấu thành bởi hai yếu tố gắn chặt với nhau, â và (từ nay là ê và i). Ở đây, chúng ta chỉ tìm hiểu yếu tố thứ nhất trong số hai yếu tố này. Yếu tố thứ hai sẽ được xét đến ở đoạn khác. Về yếu tố thứ nhất, cho rằng cách ghi hiện nay là sai quả là không đúng và phải viết thành ê lại càng không đúng.

Yếu tố thứ nhất này, cho tới nay được phiên thành â, là âm ngắn. Chỉ việc nghe thôi cũng đã cho chúng ta thấy điều này. Người Annam đầu tiên chúng ta gặp sẽ đưa ra cho chúng ta bằng chứng. Các tác giả xác nhận sự kiện. Giám mục Taberd, trong cuốn Dictionnarium Annamatico-latinum (Từ điển annam-latinh) của ông, trong lời tựa, trang 3, viết: “à và â luôn luôn là âm ngắn” - và, ở trang 7, “đọc một cách ngắn hơn và một cách gần như âm điếc và chìm (surdo và subobscuro) [chữ â]”- Linh mục Vallot, trong Grammaire Annamite (Ngữ pháp annam), tr. 9, viết: “ây luôn luôn là âm ngắn”. Và ông Chéon, trong tập Cours (Giáo trình) của ông, tr. 6 “trong ay và âyvà â là những âm rất ngắn và ít nhiều khép lại”.

Âm ngắn và điếc, đó là điều các tác giả và kinh nghiệm nói với chúng ta.

Bây giờ chúng ta thử xem các tác giả đã giải thích thế nào về điều này, nghĩa là người ta đã so sánh âm của â trong ây với âm nào trong tiếng Pháp.

Chúng ta đã được thấy cảm nghĩ của Giám mục Taberd, â khắp nơi đều có âm điếc và hơi bị chìm đi “modo quasi surdo et subobscuro”. Ở trang 7 của lời tựa, giám mục thêm: Hy Lạp tách âm tiết, như, v-g-cây, có tác dụng như thể câ-i”. Dĩ nhiên, đây là một cách nói, bởi vì nguyên âm đôi ây, cũng như tất cả các nguyên âm đôi của tiếng Annam không hề được tách ra hoàn toàn.

Nhưng rõ ràng là đối với Giám mục Taberd, nguyên âm đôi ây, chỉ âm điếc và mờ của thường (âm này thay đổi nhiều, so sánh với Cheon, Cours, trang 5), tiếp theo là âm được đọc một cách rõ rệt hơn là trong nguyên âm đôi ai chẳng hạn.

Cha Vallot, Grammaire, trang 9 “ây có âm eil trong orteil” nghĩa là â được đọc gần như è mở của tiếng Pháp – Ông Chéon, Cours, tr. 5: “â trong các từ lây, lây, có âm như ê nhưng ngắn” - tr. 6 : “mây đọc như âm tiết đầu của Meyer” – Ông Nordemann, Méthode de langue Annamite (Phương pháp học tiếng Annam), tr. 3, đồng hóa â trong cây với ê trong mê, về âm. – Cha Cadière, Phonétique Annamite (Ngữ âm học tiếng Annam), tr. 8 “Nguyên âm đôi ây rất giống với âm ê và đọc gần như âm tiết eil trong vermeil”.

Do đó, theo các tác giả, chúng ta có thể so sánh âm â trong ây khi thì với một âm điếc và mờ, khi thì với âm è mở, khi thì với âm é đóng.

Nếu giờ đây chúng ta tìm hiểu các văn kiện cổ, chúng ta sẽ thấy rằng, khởi đầu, các tác giả chữ quốc ngữ đã chấp nhận ba cách viết. Linh mục de Rhodes, trong Catechismus(Phép giảng) in tại Roma năm 1651, viết êy thay cho ây [y …là, tr. 6. –bêy, thay cho bây, vây, cũng vậy, tr. 28, 29, 57, - ai nêi thay vì ai nấy, tr. 56; lêy thay cho lây (lấy), tr. 11, - dêy thay cho dây, tr. 11, vân vân – Ông cũng dùng hoặc cho chính các từ này, hoặc cho rất nhiều các từ khác chúng ta không cần nêu ra đây, hình thức ây, và tôi nghĩ cách viết này chiếm ưu thế trong tác giả này.- Cuối cùng, đôi lúc ông cũng dùng ei chẳng hạn quéi cho quấy [sai lầm, quấy, không thích hợp], tr. 13.

Giải thích về các hình thức khác nhau này không có gì khó. Vào buổi đầu, các thừa sai chưa có một hệ thống nhất định. Nhiều âm của tiếng Annam chưa được cố định, chỉ đọc qua Catechismus của linh mục de Rhodes và các thủ bản về sau cũng cho chúng ta thấy rõ điều này. Đặc biệt, âm mà ngày nay chúng ta phiên là ây, trong chính tả, được diễn tả thành êy, âi, êi, ei. Sự lẫn lộn giữa ê và â hay giữa các nguyên âm khác còn đi xa hơn nữa, và chúng ta có các hình thức dêt thay cho dât (đất), tr. 12, 28; cuên thay cho quân, tr. 5; tuêi thay cho tuổi (năm), tr. 5; nhiêu, tr. 7, nhêo, tr. 5, thay cho nhiêu (nhiều), vân vân.

Chính tả chưa cố định, vậy thôi, chưa cố định bởi vì người ta chưa nhận ra một cách chính xác vô số các âm rập rờn của tiếng Annam trong các hình thức khác nhau ở đó chúng xuất hiện với tính cách các yếu tố.

Nhưng bởi vì linh mục de Rhodes đã sử dụng đồng thời các hình thức êy, êi, ei, âi, ây, nên chúng ta phải có sự chọn lựa. Nói cách khác, những người tiếp nối linh mục de Rhodes phải chăng đã sai lầm mà lần lượt loại bỏ các hình thức êy, êi, ei, âi, vốn xem ra cũng ít được chính linh mục de Rhodes sử dụng và cuối cùng dứt khoát giữ lại hình thức ây?

Không, họ không lầm.

Trong âyâ không hoàn toàn đáp ứng âm è mở hay é đóng như người ta tưởng; â diễn tả một âm điếc và mờ, không rõ ràng, âm này, trên nguyên tắc, giống eu trong deuil (tiếng Pháp), nhưng gần với giọng cổ hơn, và đồng thời nhẹ hơn, bồng bềnh (flottant) hơn, ít dứt khoát hơn. Đó là “âm gần như âm điếc và chìm” theo Giám mục Taberd.

Nghiên cứu về hình dạng của một số hình thức sẽ chứng minh rộng rãi cho chúng ta điều này.

Các ngôn ngữ Mường có họ hàng rất gần với tiếng Annam; các dân tộc nói tiếng Mường sống rải rác dọc trên sườn hay trong các thung lũng cao của dãy Trường Sơn. Tại Quảng Bình, tôi thấy có hai dân tộc sử dụng tiếng Mường. Một thay hay ở cuối một số từ bằng n, một thay yếu tố cuối này bằng l.

Chúng ta thử xem xem hai dân tộc này đã có tác động nào trên hình thức của tiếng Annam được phiên thành ây.

Đối với dân tộc thứ nhất:

Cân thay cho cấy; dân thay cho dậy; mân thay cho mây; cân thay cho cây;

Và đối với dân tộc thứ hai:

Kol thay cho cấy (cấy lúa); ti dil thay cho dậy (thức dậy).

Các từ vựng do tạp chí của Trường Viễn Đông Bác cổ cung cấp, tập V, tr. 358, 362 chỉ đưa ra một số từ này. Nhưng từng ấy cũng đã rất đủ để chứng minh cho thấy rằng yếu tố đầu của nguyên âm đôi là một âm điếc, vốn đã bị làm lệch đi đôi chút bởi yếu tố cuối, để biến thành è mở, chỗ này, thành é đóng chỗ nọ - các yếu tố khác nhau của các từ tác động lên nhau, các yếu tố này thay đổi nhiều hoặc ít các yếu tố khác, và đến lượt mình, các yếu tố này đã bị thay đổi bởi các yếu tố khác – âm điếc tái xuất hiện với bản chất riêng của nó khi yếu tố cuối bị thay đổi, nghĩa là khi nguyên nhân đã gây ra sự thay đổi không còn.

Đừng nói là cách đọc của các thị tộc đã được ghi không chính xác để bác lại. ây thay êl hay ei còn có thể được, nhưng ên hay en thay cho ân thì không thể được. Con, thay cho cây, được sử dụng tại nhiều tỉnh ở Annam, cũng chứng mình điều này; là một sự nhấn mạnh của â và hình thức có tính cách địa phương con khiến nghĩ tới hình thức cân, cũng chính là hình thức chúng ta có nơi người Mường ở Quảng Bình. Chúng ta luôn gặp âm điếc và ngắn này trong cây và trong cân, nhưng mở và kéo dài trong con.

Theo ý tôi, các sự kiện này minh chứng một cách rõ ràng rằng yếu tố đầu của nguyên âm đôi ây đã không bị biến đổi một cách sai lầm thành â như các thành viên của Hội đồng Cải cách Học chính địa phương muốn nói, một cách hơi thiếu suy nghĩ, mà chính là âm điếc “modo quasi surdo et subobscuro” mà Giám mục Taberd mô tả, âm mà chúng ta sẽ gặp lại trong các hình thức khác có â.

Chúng ta thừ tìm hiểu kỹ hơn một chút các tương đương của âm mà các tác giả đưa ra cho nguyên âm đôi ây. Người thì bảo nguyên âm đôi này phải đọc như é khép kín, người khác thì lại nói như è mở, có theo sau. Xin độc giả bớt chút thời giờ để tập đọc nhé! Mây được đọc hoặc như từ mê của tiếng Annam thêm i, hoặc như từ Annam me thêm i. Hãy đọc hai phần này một cách hết sức tách biệt, bằng cách tách một cách rõ ràng mê hay me khỏi i. Đoạn đọc đi đọc lại nhiều lần bằng cách kéo lại càng ngày càng gần nhau hai phần này nhưng vẫn luôn giữ một cách chính xác âm mê hay me cho phần thứ nhất, điều này sẽ khó khăn đấy, cho tới khi nào bạn ráp liền được hai phần, đặt hai phần này trong quan hệ phải có trong từ mây của tiếng Annam. Hãy nói cho tôi biết âm bạn vừa đọc- trong khi vẫn giữ, như tôi nói, âm mê hay me cho phần một – có giống với âm người Annam đọc từ mây hay không? Không. Các tác giả chữ quốc ngữ không phải là không có cái tai thính hay óc nhận xét tinh tế. Bởi vậy, nếu họ đã không giữ lại, sau khi thử, các cách viết méi hay mei, ấy là vì họ đã xét thấy, và họ có lý, như tôi đã cho thấy, là không thích hợp để diễn tả các yếu tố của từ.

Khi chúng ta nói rằng ây đọc như ei hay êi, đó là một cách nói, gần giống như khi chúng ta muốn giúp một người mới bắt đầu, như điều này thường xảy ra đối với nhiều âm của tiếng Annam vốn không có tương đương chính xác trong tiếng Pháp. Bởi vậy, âm được diễn tả bằng ây chỉ trở thành éi hay ei đối với những cái tai không được rèn luyện, đối với một người nghe hời hợt, hay đối với một ông thầy muốn hướng dẫn một học trò người Pháp vào buổi đầu mà thôi. Thực ra, đây là âm điếc và mờ mà Giám mục Taberd nói đến.

Thú thực là khi tôi thoạt nhìn thấy danh sách các cải cách được chấp thuận cho cách viết quốc ngữ, cách viết éi thay cho ây xem ra đối với tôi là một trong những cải cách có thể chấp nhận được. Ký ức về cách viết của linh mục de Rhodes đã có ảnh hưởng trên tôi. Việc nghiên cứu vấn đề một cách có phương pháp đã thay đổi hoàn toàn quan niệm của tôi. Cách viết dùng một â phải được duy trì. Chính cách viết mới đã được chấp thuận mới không đúng.

Để chấm dứt cuộc tranh luận về một chi tiết xem ra quá nhỏ bé này, tôi thấy cần phải tôn vinh sự kiên nhẫn của những người sáng chế ra chữ quốc ngữ. Chúng ta đã thấy những chao đảo của cách viết thuở đầu, sự do dự của các tác giả. Những bước mò mẫm, ghi nhận, so sánh, sự tế nhị của tai nghe, sự chính xác cần thiết sau đó để nhận diện, ấn định dứt khoát cái yếu tố có một tính chất rất ư là thiếu rõ rệt này. Đừng tháo bỏ công trình của những người đi trước nếu không phải là để chỉnh sửa, cải thiện và hoàn chỉnh nó.

                2. “A sẽ có dấu ngắn ở trên khi a là một âm ngắn”. Chẳng hạn ít ra là trong các hình thức ay, anh, ach, au. Cuộc cải cách quả là tuyệt vời và nó đã lấp đầy một lỗ hổng của hệ thống hiện tại. Nhưng cũng nên nói rõ trong các hình thức nào thì là âm ngắn. Nếu để cho mỗi người tùy tiện theo ý mình, theo khoa học, nhất là của người Annam, những người sẽ soạn ra các sách giáo khoa cho các cuộc thi của các giáo viên làng hay tỉnh, người ta sẽ chỉ có thể đi tới chỗ hỗn loạn. Đặc biệt, ở cuối không được nhấn mạnh, của các dạng bua, bia, bua, vân vân mà ông Chéon, Cours, tr. 4 nói là ngắn và đúng là như vậy, liệu sẽ được đặt dấu để làm ngắn?

                3. “i sẽ luôn được viết là i”. Chúng ta sẽ viết i trong nguyên âm đôi “ui

Văn bản không rõ ràng. Bản báo cáo về các cuộc họp của Hội đồng cho chúng ta một ý tưởng khá chính xác về các tác dụng của cải cách.

a. Như vậy, người ta sẽ không còn viết y, ly, mysy vân vân mà là i, li, mi, si vân vân. Cần được chấp thuận một cách trọn vẹn.

b. Người ta sẽ không còn viết cay, may vân vân mà viết kai, mai vân vân. Dấu đọc ngắn (a) đủ để phân biệt các hình thức của cai, mai vân vân với dài và cay, may vân vân với ngắn.

Trong tiếng Annam, chúng ta có một loạt các nguyên âm đôi, trong đó yếu tố thứ hai là i. Đó là ai, oi, ơi, ôi, ui và ay, ây, ngoài ra còn phải thêm ui của một số hình thức do người Bắc Kỳ sử dụng. Yếu tố cuối này cũng có cùng tính chất trong tất cả các hình thức này. Để chứng minh, chúng ta chỉ việc tìm tới các tiếng nói của người Mường vốn biến yếu tố cuối này thành hay l, dù nguyên âm đứng trước là gì đi nữa.

Chẳng hạn, trong tiếng Mường ở Quảng Bình, chúng ta có:

Pun pun và pul pul thay cho bụipan thay cho vai,

Pan và pol hay pâl thay cho baycan thay cho cầy; puon hay puol thay cho bưởi, vân vân.

Mặc dù yếu tố này vẫn là vậy, về bản chất, trong tất cả các hình thức, tuy nhiên chúng ta cũng phải phân biệt hai loại, tùy theo yếu tố thứ nhất của nguyên âm đôi là dài hay ngắn, và chúng ta có loại ai, oi, ơi, ôi, ui và loại ay, ây, ui. Trong loại thứ nhất, vì giá trị của nguyên âm nổi trội, và định luật hấp thụ, yếu tố cuối dài hơn, nhẹ, mơ hồ hơn, đôi khi mở hơn; trong loại thứ hai, nó có âm khép hơn, ngắn hơn, rõ hơn, rõ nét hơn, vì cũng các lý do ấy. Đó là điều mà những người tạo ra chữ quốc ngữ đã muốn ghi nhận bằng cách đặt ở đó một đơn giản, ở đây một y, ngoại trừ đối với các hình thức ít được sử dụng hơn ui.

Làm sao diễn tả yếu tố thứ hai này? Nhiều hệ thống được phép sử dụng. Hoặc duy trì hệ thống hiện tại; hoặc ngược lại với hệ thống này, đặt tại nơi hiện tại người ta dùng y, và vào chỗ hiện nay người ta viết i. Đó là hệ thống ông Aymonnier đã hình dung trong Nos transcriptions (Cách phiên của chúng ta), và đây là hệ thống Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp đã chấp nhận. Chúng ta có thể biện minh – người ta có thể dùng cùng một dấu cho mọi trường hợp hoặc y, hoặc i, như các thành viên của Hội đồng Cải cách Học chính địa phương đã làm. Người ta có thể chấp nhận hệ thống này để đơn giản hóa, nhưng lại gặp phải một khó khăn tôi sẽ trình bày sau.

c. Người ta sẽ không còn viết luy, chuy, tuy, vân vân, mà là lui, chui, tui, vân vân, với một dấu mũ trên i.

Khi liệt kê trên đây các nguyên âm đôi với yếu tố cuối là i, tôi đã không đưa ra nguyên âm đôi vốn cho tới nay được viết là uy. Ấy là vì nguyên âm đôi này hoàn toàn khác với các nguyên âm đôi được liệt kê trước đó.

Trong ai, ay, ây, oi, ôi, ơi, ui, ưi, chính yếu tố thứ nhất là yếu tố được nhấn mạnh, đóng vai trò chủ chốt trong cách đọc. Yếu tố thứ hai, khi là i, khi là y, không được nhấn mạnh. Trong uy, thì lại hoàn toàn ngược lại. Chính yếu tố cuối, tức (=i) lại được nhấn mạnh. Yếu tố đầu, tức u, là một bán nguyên âm môi không có dấu, không phải bán nguyên âm thông thường chúng ta tìm thấy trong qui hay trong ngui (đôi khi thay cho nguy), mà là bán nguyên âm được làm dịu, nghĩa là có âm trong tiếng Pháp hay gần giống vậy. Qua đó, chúng ta thấy được sự khác biệt giữa các hình thức viết lui và luy cho tới nay. Trong hình thức thứ nhất được nhấn mạnh và vừa đủ để nhận ra; trong hình thức thứ hai, là nguyên âm đầy của từ, hoàn toàn như trong li (hay ly), nhưng có bán nguyên âm u, được làm dịu bớt, đặt ở trước. Hai hình thức lui và luy này là hoàn toàn khác nhau – tôi nói về cách đọc, bởi vì, theo từ nguyên học mà nói, các hình thức ui và các hình thức uy lại có bà con rất gần trong nhiều trường hợp. Nhưng đó không phải là vấn đề.

Trong các cuộc họp lấy quyết định về các thay đổi trong hệ thống quốc ngữ, ông Nordemann đã nhấn mạnh để sự khác biệt này phải được duy trì trong chữ viết. Nhưng một số thành viên, khôn ngoan hơn theo lệ thường, còn đề nghị thêm dấu trên trong các hình thức có uy trong các sách xuất bản. Điều này có nghĩa là hoàn toàn không biết gì về bản chất của nguyên âm đôi này, và tôi vui mừng khi thấy rằng chân lý đã thắng.

Trong chính tả, hoàn toàn không thể không duy trì sự khác biệt giữa các hình thức có ui và các hình thức có uy.

Làm thế nào? Chính để tạo sự khác biệt giữa hai hình thức này mà chữ quốc ngữ truyền thống, luôn sử dụng chữ để viết yếu tố đầu, đã sử dụng khi thì y, khi thì i, để viết yếu tố cuối của nguyên âm đôi. Người ta đã phê phán một cách chính đáng cách làm này. Về phương diện thực tiễn nó có cái lợi của nó. Khi thấy chữ ở cuối một từ, người ta biết là đặt ở trước phải được đọc mà không nhấn mạnh, và với âm của trong tiếng Pháp hay gần như vậy. Khi thấy i, người ta biết là đặt ở trước phải được đọc và nhấn mạnh, giống như với âm ou trong tiếng Pháp, trừ trường hợp của qui và ngui (thay cho nguy) trong đó có âm ou nhưng không được nhấn mạnh.

Nhưng về phương diện khoa học, cách làm này không biện minh được. trong luy có cùng giá trị như trong bi, li. Tại sao lại làm khác đi? Vả lại, mọi thay đổi về âm hay về giá trị trong một yếu tố của một từ, đều phải được diễn tả bằng sự thay đổi dấu diễn tả yếu tố này. Ở đây chính có một giá trị khác tùy theo các hình thức: sự thay đổi giá trị này của yếu tố thứ nhất được chỉ ra bởi sự thay đổi hình thức của yếu tố theo sau, được diễn tả chỗ này bằng i, chỗ nọ bằng quả chẳng hợp lý chút nào. Những người sáng tạo ra chữ quốc ngữ đã làm đúng khi tạo ra sự khác biệt về giọng và giá trị, nhưng họ đã ghi nhận các giá trị này và các âm khác nhau này bằng một cách thức không khớp với các quy tắc của khoa học hiện đại. Họ đã chấp nhận đưa vào hệ thống của họ một sự dị thường và đã phạm một lỗi đi ngược lại logic.

Hệ thống mới lại cũng vấp phải chính các lỗi này. Dù dùng hay với dấu mũ, sự dị thường vẫn còn đó. Cũng một nguyên âm được diễn tả chỗ này bằng thường, (trong bi, mi, li, vân vân), chỗ nọ bằng với dấu mũ (trong các hình thức viết cho tới nay bằng uy.). Sự thiếu logic cũng vẫn còn: người ta cho thấy sự thay đổi giá trị của yếu tố thứ nhất luôn bằng cách thay đổi yếu tố thứ hai của nguyên âm đôi. Hệ thống mới do đó chẳng hơn gì hệ thống cũ. Ngay cả cái lợi là xích lại gần với chính tả của tiếng Pháp cũng không có, bởi vì, theo tôi biết, không có trường hợp nào trong đó việc đặt dấu mũ trên chữ lại chỉ một sự thay đổi của âm đi trước.

Trong các phiên họp của Hội đồng, người ta đã nói đến việc dùng với dấu tréma, để cho thấy trong các hình thức bằng uy là tách biệt một cách rõ ràng. Vẫn là không nhận ra điều gì tạo nên sự khác biệt một cách căn bản giữa các hình thức ui và hình thức uy. Cách viết cũng chẳng hay hơn.

Người ta đã nói đủ cả về các sự dị thường, về những sự không hợp lý của chữ quốc ngữ! Cũng cần lưu ý ở đây là các nhà cải cách hiện đại của chúng ta cũng vấp phải chính những khó khăn vốn đã khiến các nhà chế tạo ra chữ quốc ngữ phải dừng lại, và đã giải quyết các khó khăn này cũng theo một kiểu, nghĩa là cũng bởi các dị thường và không hợp lý. Các nhà chế tạo ra chữ quốc ngữ có được các hoàn cảnh để được châm chước: họ không muốn tạo ra một công trình của các nhà thông thái, họ chẳng biết gì về những quy tắc của khoa học hiện đại. Trường hợp của các nhà cải cách ngày nay thì không phải vậy.

Nhưng người ta sẽ nói với tôi rằng người ta đâu có muốn làm công trình khoa học. Người ta thấy rõ điều này. Nếu vậy thì tại sao lại thay đổi?

Chỉ có một cách thức thực sự logic để giải quyết khó khăn: đó là chấp nhận cho các hình thức có uy, hoặc chữ hoặc (với dấu tréma) để diễn tả yếu tố thứ nhất của nguyên âm đôi. Người ta đã lùi bước trước sự cải cách triệt để này. Người ta đã dừng lại giữa đường.

Điều người ta đã làm không phải là một cải cách thực sự, mà chỉ là một sự thay đổi.

d. Người ta sẽ không còn viết huynh, khuynh, khuya, mà viết là huinh, khuinh, khuia. Hệ thống cổ truyền sử dụng hai cách viết này để diễn tả hai hình thức của các từ này tùy theo các phương ngữ, một hình thức với bán nguyên âm thông thường có âm ou (huinh, khuinh, khuya), và một hình thức với bán nguyên âm được làm nhẹ bớt, nghĩa là với âm (huynh, khuynh, khuya). Hình thức thứ hai này không còn trong hệ thống mới. Như vậy, hệ thống mới này ít khả năng hơn hệ thống cũ để diễn tả các sự khác nhau tinh tế của ngôn ngữ Annam.

                4. “bán nguyên âm của i sẽ viết như vậy ở bên trong các từ”

Hệ thống mới như vậy có khuynh hướng phân biệt bán nguyên âm với nguyên âm, diễn tả bán nguyên âm bằng y, nhưng chỉ bên trong các từ mà thôi, và nguyên âm bằng i. Nguyên tắc thì tốt. Nhưng tại sao lại không áp dụng mọi nơi mọi chốn. của các hình thức có ai, oi, ôi, ơi, ui, và tôi cũng có thể nói như vậy về các hình thức có ay, ây, là một bán nguyên âm trước con mắt của nhiêu tác giả. Tại sao lại không diễn tả nó cũng bằng dấu của bán nguyên âm? Một bất hợp lý nữa – tại sao không áp dụng nguyên tắc này cho tất cả mọi bán nguyên âm? Tại sao không phân biệt nguyên âm với bán nguyên âm; nguyên âm với bán nguyên âm? Chính tả của Linh mục de Rhodes, khi ông viết hoa, doan, ngoai, vân vân, với dấu làm ngắn đi trên bán nguyên âm xem ra được chú ý tới nhiều.

Người ta không phân biệt trong trường hợp nào thì hay bên trong các từ phải được xem như bán nguyên âm. Nói rõ ra điều này thì tốt hơn. Chắc chắn người ta sẽ tiếp tục viết yêu, yên, yêng, vân vân; người ta sẽ viết hyêu, hyên, khyên, ngyên (nghiên hiện nay) vân vân; người ta sẽ viết byên, byêu, byêt, vân vân. Ít ra là tôi giả thiết như vậy. Nhưng tôi nghĩ tốt hơn là nên soi sáng vấn đề và nói rõ. Tôi không nghĩ là giáo viên người Annam điều hành trường tỉnh của chúng ta sẽ giải quyết được vấn đề một mình.

Từ nay, chúng ta sẽ viết huyên, nguyên, quyên, duyên. Hãy dừng lại đôi chút ở các hình thức sau cùng này. Một số từ trong đó nguyên âm đôi iê có bán nguyên âm môi đặt trước, tùy theo phương ngữ, có hai hình thức, một với bán nguyên âm môi thông thường, có âm ou của tiếng Pháp, một với bán nguyên âm được làm nhẹ đi, có âm trong tiếng Pháp. Chữ quốc ngữ cổ truyền dành cách viết iê cho hình thức thứ nhất (huiên, duiên), và cách viết yê cho hình thức thứ hai hyên, duyên (như chúng ta đã thấy trên đây các hình thức có ui và uy; huinh, khuinh, khuia, và huynhkhuynh, khuya). Đối với các từ có một hình thức duy nhất (bán nguyên âm được làm nhẹ) người ta dùng cách viết yê (chuyên, luyên, khuyên, vân vân). Quy tắc này có những luật trừ và người ta viết nguyên, nguyêt, quyên, quyêt, mặc dù trong các từ này bán nguyên âm ở tình trạng bình thường. Nhưng nó cũng chế ngự một số lớn các trường hợp.

Khi áp dụng chính tả mới, nghĩa là dùng khắp nơi, làm sao người ta có thể phân biệt được hai hình thức tôi đã cho thấy ở trên? Người ta sẽ không phân biệt. Một lần nữa, hệ thống mới tỏ ra kém hơn hệ thống cũ, nó không diễn tả tốt hơn các điểm khác biệt tinh tế của các âm trong tiếng Annam.

Việc dùng để diễn tả bán nguyên âm là rất hợp lý. Nhưng nguyên tắc phải được áp dụng cho tất cả mọi trường hợp, và việc chấp nhận cách viết này kéo theo việc sử dụng một dấu đặc biệt cho bán nguyên âm và những khác biệt tinh tế khác.

                5. “đ sẽ được viết là d

Nghĩa là người ta bỏ chữ đ có gạch ngang và thay thế bằng chữ bình thường. Đó là một cải cách người ta yêu cầu từ lâu. Nếu hệ thống mới chỉ gồm những cải cách loại này, thì chẳng có gì để phê phán.

                6. “c, k, q sẽ đồng loạt được viết là k, các ví dụ đặc biệt: cua sẽ viết là kua; qua sẽ viết là koa

Đây cũng vẫn là một trong những cải cách không trọn vẹn, về hai khía cạnh, một mặt tốt, một mặt đáng lên án, vốn đầy rẫy trong hệ thống mới, bởi vì người ta không muốn làm việc một cách khoa học và không muốn logic cho tới cùng, bởi vì người ta đã dừng lại giữa đường, giải quyết một khó khăn bằng một dị thường.

Dự án viết các chữ c, k, q, bằng một chữ duy nhất đọc trong cổ và là âm điếc không phải là mới. Nhưng những người đưa ra dự án này, các ông Aymonnier, Chéon, các thành viên của Hội nghị các nhà Đông phương học tại Hà Nội cũng đề nghị diễn tả bán nguyên âm tiếp theo sau bằng chữ w. Đây là hậu quả logic của việc chấp nhận thay cho q. Các nhà cải cách hiện tại có lẽ đã lùi bước trước sự xáo trộn cách viết đã diễn ra do việc chấp nhận chữ w. Chính vì vậy mà họ đã đi tới chỗ chấp nhận cách viết koa thay cho qua.

Bởi vì người ta thay và bởi cùng một chữ là k, người ta đâm ra lúng túng trước các từ cho tới nay được viết là cua và qua. Ở đây, chúng ta cũng đứng trước những khác biệt căn bản chúng ta đã thấy trên đây giữa các hình thức có ui và các hình thức có uy. Trong cua, chính u, một nguyên âm đầy đủ, mới là chữ được nhấn mạnh, trong khi a, nguyên âm được giảm nhẹ, không được nhấn mạnh. Trong qua, chính mới là một nguyên âm đầy đủ, được nhấn mạnh, trong khi là bán nguyên âm bình thường. Chữ Quốc ngữ cổ truyền diễn ta sự khác biệt này bằng cua ở chỗ này và qua ở chỗ nọ. Theo dự án được Hội nghị các nhà Đông phương học chấp thuận, chúng ta sẽ có kua và kwa. Cách viết sau mới là cách viết logic nhất. Hệ thống mới viết kua (cua) và koa (qua).

Một điều dị thường và một sự không chính xác.

Không chính xác, bởi vì chúng ta chỉ cần nghe bất cứ người Annam nào nói là có thể thấy rằng trong từ qua, âm được diễn tả bằng là ou trong tiếng Pháp chứ không phải o. Đây là bán nguyên âm bình thường dưới dạng điếc, hoàn toàn khác về âm với bán nguyên âm dạng kêu được diễn tả bằng o. Nghe một người Annam đọc các từ qua, que, qué và các từ khoa, khoe, người ta sẽ thấy ngay sự khác biệt.

Tất cả các tác giả đều đồng ý với ý kiến này. Giám mục Taberd, trong lời Tựa của cuốn Dictionnarium, tr. 8, “est in usu et exprimitur ut in linguâ latinâ/ được sử dụng và diễn tả như trong tiếng latinh”. Ông Chéon, Cours, tr. 3, “qu có cùng giá trị như trong quatuor”. Linh mục Vallot, Grammaire, tr 17, “qu đọc là cou” – Chỉ có ông Nordemann, Méthode de langue Annamite, tr. 12, diễn tả như thế này“[âm oa tiếng Pháp được diễn tả thành oa trong oan, loan, soa] được viết là ua sau phụ âm q, chẳng hạn: quan, qua”, và viết tiếp ở phần chú thích “sẽ hợp lý hơn nếu viết koan, koa”.

Tại sao lại hợp lý hơn? Vì cách đọc? Nhưng chúng ta đã thấy, theo các tác giả được nói đến trên đây và người ta có thể thấy khi nghe một người Annam gặp lần đầu tiên nói, rằng qua không đọc như koa – Vì lý do từ nguyên học? Nhưng khi chúng ta liệt kê danh sách tất cả các từ Hán Việt bắt đầu bằng qu, và chúng ta sẽ thấy là các từ này tương ứng với các hình thức được diễn tả bằng ku, kou hay ko trong phương ngữ người Hoa, nghĩa là bao gồm bán nguyên âm có dạng điếc. Chỉ có mấy luật trừ khi bán nguyên âm gần với âm nguyên âm của từ. Chẳng cần phải kê ra các ví dụ ở đây. Một số tác giả, như Linh mục Couvreur, sử dụng khi thì cách viết kou, khi thì cách viết ko. Nhưng không nên để mình bị đánh lừa bởi cách viết sau này. Chúng tôi đã lưu ý trong lời tựa là oai đọc như ouai trong từ douai của tiếng Pháp, hay như we trong were của tiếng Anh; oei đọc như oui trong enfoui; nghĩa là trong tất cả các từ này, dù dùng cách viết nào, bằng ou hay bằng o, người ta đều muốn diễn tả bán nguyên âm dưới hình thức điếc.

Chúng ta hãy thử xem điều ngược lại: Linh mục Couvreur, vốn đã dùng, tôi không hiểu vì lý do gì, cách viết trong Dictionnaire chinois-français và trong Dictionnarium được in năm 1890 và 1892, ít lâu sau đó đã muốn điều chỉnh cách viết của mình theo đòi hỏi của lỗ tai người Pháp đã buộc phải từ bỏ cách viết bằng và chấp nhận cách viết bằng ou trong Petit dictionnaire chinois-français của ông in năm 1903. Ở đây, tại thuộc địa Pháp, những người theo đuổi mục tiêu chính –biên bản các cuộc họp cho phép chúng ta nghĩ như vậy – là Pháp hóa cách viết truyền thống, đã từ bỏ cách viết bằng và chấp nhận cách viết bằng o. Quả là bất nhất làm sao ! Tệ hơn nữa, một sự không chính xác như chúng ta đã thấy.

Cả ở đây nữa, các nhà cải cách hiện đại bị đặt trước cũng khó khăn ấy vốn đã làm cho những người sáng chế chữ quốc ngữ phải dừng bước. Những người sáng chế ra chữ quốc ngữ đã giải quyết khó khăn bằng cách chấp nhận, chỗ này thì dùng c (cua), chỗ nọ dùng q (qua). Đây là một sự thiếu logic, tôi sẵn sàng cho là như vậy, và biện pháp chẳng có chút gì khoa học: chính giá trị của thay đổi, chứ không phải âm họng ở đầu phải thay đổi hình dạng. Nhưng sự thiếu logic này có thể được châm chước. Những người sáng chế chữ quốc ngữ đều bị bao phủ bởi việc sử dụng xa xưa của tiếng Latin đối với chữ khi âm họng có bán nguyên âm đi theo. Cách viết của họ không có gì là khác thường, nhất là không có gì sai. Họ được hưởng những hoàn cảnh làm nhẹ “tội”, và nhất là cách họ giải quyết khó khăn lại chính đáng hơn cách của các nhà cải cách hiện tại.

Ông Nordemann cũng chủ trương, trong Méthode, tr. 12, rằng que phải được viết là koe; tr. 14, quan, quanh đáp ứng với koan, koanh. Ông dựa trên lý do gì? Ông không nói ra. Không phải tại vì cách người ta đọc các từ này. Tôi không thể nghĩ rằng ông Nordemann lại nhầm lẫn đến độ nghe ra koa, koan, koe, vân vân, khi người dân nói qua, que, quan, vân vân; và giá trị của được tất cả các tác giả, những người đã nghiên cứu phương ngữ Bắc Kỳ cũng như các người khác đã thừa nhận, tôi không thể chấp nhận được là ở Bắc Kỳ người ta đọc như ông Nordemann mong muốn. – Có lẽ là do nguyên âm của các từ này. Ông Nordemnn chỉ khuyên sử dụng cách viết bằng ko đối với các từ trong đó nguyên âm là một nguyên âm mở, a, a, e. Vì nguyên âm này mở, nên bán nguyên âm đi trước cũng phải được đọc và viết với hình thức mở o. Lý do này, giả thiết là ông Nordemann đã đưa ra cho mình, không có giá trị. Bởi vì, âm họng mở đầu dù là âm họng mạnh thuần túy (q), dù là âm họng mũi, ng, luôn đòi hỏi là sau nó phải là bán nguyên âm với hình thức điếc thông thường, trong khi các phụ âm khác ở đầu chấp nhận hoặc chỉ bán nguyên âm giảm nhẹ, hoặc hai hình thức, một với bán nguyên âm giảm nhẹ, một với bán nguyên âm thông thường. Quá dài để triển khai ở đây vấn để về ngữ âm. Bản tóm lược các hình thức không cho biết liệu chúng ta sẽ viết koan, koanh, koang, koe, koen, vân vân thay cho quan, quanh, quang, que, quen, vân vân hay không. Nếu viết, thì chỉ tổ làm gia tăng con số những cách viết không chính xác: kể đã quá lắm rồi khi viết koa thay cho qua.

Ngoài ra, ở đây, tôi còn muốn cho thấy là cái hệ thống mới này còn kém hơn cả hệ thống cũ trong cách ghi các hình thức khác nhau của tiếng Annam. Chúng ta hiện nay có các hình thức quôc, và cuôc (cuốc, nước), hai hình thức này khác nhau, trong hình thức thứ hai nhạy cảm hơn, dài hơn, nhấn mạnh hơn của hình thức thứ nhất. Chỉ cần nghe người Annam nói. Hệ thống cũ sử dụng ở chỗ này và ở chỗ khác để viết hai hình thức ấy. Hệ thống mới chỉ có thể sử dụng một hình thức duy nhất là kuôk. Chủ tịch Tiểu ban cải cách việc phiên âm chữ quốc ngữ nói rằng khi thực hiện các cuộc cải cách này, người ta muốn quy tắc hóa và đơn giản hóa cách viết thông thường. Người ta quên rằng việc đơn giản hóa đôi khi cũng dẫn đến tình trạng lộn xộn. Có lẽ người ta hy vọng rằng khi diễn tả quôc và cuôc theo cùng một cách, người ta sẽ khiến người dân đọc hai từ này theo cùng một cách. Như vậy thì đây sẽ là một sự thay đổi triệt để, nhưng trong một thời hạn lâu lắc làm sao. Một lần nữa, chúng ta có thể nói là các nhà cải cách bị đứng trước một khó khăn vốn cũng đã đặt ra cho những người sáng chế ra chữ Quốc ngữ cổ truyền. Nhưng người này đã giải quyết, trong khi người kia đã không nhận ra hay tưởng là đã có thể loại trừ được bằng cách gạt ra ngoài.

                7. “d, gi sẽ viết là j”, “d, gi, cả hai sẽ viết là j”

Cả hai câu này đều nằm trong biên bản các cuộc họp của Hội đồng Cải cách Học chính địa phương. Xin độc giả cân nhắc các từ của hình thức thứ nhất: “d, gi sẽ viết là j”. Như vậy, hai chữ và gi có cùng một âm duy nhất, có cùng một phụ âm duy nhất, đó là điều được diễn tả qua việc động từ trong tiếng Pháp được chia ở số ít (s’écrira). Ông Nordemann đã giải thích như vậy. Người viết biên bản lần cuối đã nghĩ là phải thay đổi cách viết và dùng số nhiều (s’écriront). Ít ra đây có thể hiểu là một sự phản đối ngầm. Có thể người này muốn nói rằng và gi, mặc dù từ nay được viết bằng một chữ duy nhất, vẫn có hai âm, hai phụ âm khác biệt.

Người này đã nghĩ đúng. Và quả là một sai lầm trầm trọng khi lẫn lộn và gi.

Có lẽ không có vấn đề ngữ âm Annam nào lại đem đến nhiều vất vả cho các tác giả Annam hóa của các cuốn từ điển hay văn phạm hơn là vấn đề về chữ không có gạch ngang. Tất cả đều chú trọng vào phần mô tả và tìm cách diễn tả ít nhiều hoàn chỉnh, ít nhiều đầy đủ, cách thức mà phụ âm này được đọc theo các miền khác nhau. Nhưng chưa thấy ai tái lập lịch sử của chữ này, chưa ai nỗ lực, qua việc tìm hiểu một cách kiên nhẫn các hình thức, và lên tới tận gốc gác của nó, tới tận cội rễ xa xôi của nó. Không ai chịu lần theo các nhánh khác nhau trong các phương ngữ Annam một cách đầy đủ và khoa học. Không ai ấn định bản tính của nó một cách dứt khoát.

Đây là một việc đáng ra phải làm vì lợi ích và tiện dụng của nó. Dẫu sao, đây cũng phải là một công việc chuẩn bị mà đáng lẽ ra người ta đã phải làm vì cần thiết, trước khi đồng hóa với gi. Quả là đáng tiếc khi thấy người đề nghị và quyết định các cải cách có liên quan đến tương lai dài hay ngắn mà lại không chịu tìm hiểu một cách chín chắn các vấn đề người ta giải quyết một cách vui vẻ.

Tôi sẽ tìm cách ghi lại ở đây những nét chính của công việc này.

Trước hết, chúng ta tìm hiểu chữ của Hán Việt.

Chữ của các hình thức Hán Việt khi thì biến mất hoàn toàn hay có lẽ lẫn vào trong âm nguyên âm của từ, trong một hay nhiều hình thức trong các hình Trung Hoa tương đồng. Điều này xảy ra khi của các hình thức Hán Việt có bán nguyên âm môi điếc hay kêu theo sau, (dudo) hay khi âm nguyên âm của hình thức Hán Việt là i, iê, u, ư. Tôi rất lấy làm tiếc là không thể kể ra ở đây các ví dụ khẳng định cho quy tắc này, hay các ví dụ khẳng định cho các quy tắc tiếp theo.

Trong rất nhiều từ khác, Hán Việt tương ứng trong các phương ngữ của Trung Hoa, với bán nguyên âm hay i. Điều này diễn ra với các từ Hán Việt với da, dang, dâm, dân, dât, dâu, dinh, do, vân vân.

Trong một số từ có hình thức dân, danh, diêuHán Việt tương ứng với hay trong các phương ngữ Trung Hoa.

Một cách đặc biệt, tương ứng với một âm ngạc (palatale) ch, sh, ch hay với một phụ âm răng tth, tsh –và một cách đặc biệt hơn nữa, với phụ âm đọc trong cổ họng k.

Giờ đây, chúng ta hãy tìm hiểu về gi Hán Việt. Mỗi người đều biết đây là một phụ âm duy nhất, mặc dù được viết với hai ký tự.

Phụ âm này, trong các phương ngữ Trung Hoa, tương ứng với đa số lớn các trường hợp có phụ âm đọc trong họng mạnh. Một ví dụ duy nhất có thể cho thấy sự tương ứng này: nhà đọc thành gia trong tiếng Hán Việt, trong phương ngữ miền Bắc Trung Hoa là kia, trong tiếng Thượng Hải là kaGi Hán Việt do đó tương ứng với âm đọc trong cổ mạnh, thuần túy trong tiếng Thượng Hải, mềm và có khuynh hướng ngạc hóa trong phương ngữ phía Bắc, hoàn toàn là âm ngạc trong tiếng Hán Việt.

Trong một số rất ít luật trừ, gi tương ứng với h, vốn có thể đồng hóa với một âm họng, hay một âm ngạc ch (tch), hay bán nguyên âm y.

Từ sự chứng minh này, dù không đầy đủ, người ta có thể thấy một cách rõ ràng rằng và gi của từ Hán Việt hoàn toàn khác về từ nguyên học, và vì lý do đó, chúng cần phải được viết bằng hai dấu khác nhau.

Chúng ta đừng vội từ bỏ hai phụ âm này trong tiếng Hán Việt, và xem xem chúng ra sao trong các hình thức có họ hàng về mặt từ nguyên học với các hình thức Hán Việt.

Gi Hán Việt trở lại, trong các hình thức Annam, với các âm đọc trong cổ cũ, mạnh hay êm dịu. Tốt nhất là đưa ra các ví dụ, dù rằng tôi không thể viết ra bằng chữ Hán.

Quả , tiếng Hán Việt là gia, tiếng Annam là .

Cải cay, Hán Việt (hv): giai, Annam (an.): cải

Travée, hv: gian, an.:can

Mắng, hv: gian, an.: can

Gả con gái, hv: gia, an.: gả

Góc, hv: giac, an.:góc.

Ghẻ, hv: giai, an.: ghẻ, vân vân.

Và chúng ta có phần đối nghịch với sự kiện này trong gi của tiếng annam tương ứng với Hán Việt chẳng hạn.

Dây, luật, hv: cang, an.: giườnggiềng, chiêng, Giầy: hv: hài, an.: giày, vân vân.

Hồi xưa, gi Hán Việt trở nên mạnh hơn bằng ch trong các hình thức Annam.

Che, hv: gia, an.: che, vân vân.

Hay gi của tiếng Annam tương ứng với ch hv: giấy, hv: chi, an.: giấy, vân vân.

Trường hợp của Dám: hv: Cảm, an.: Dám được giải thích bởi sự lẫn lộn giữa và gi mà tôi sẽ nói sau.

Giờ đây, chúng ta thử xem Hán Việt sẽ ra sao trong các hình thức Annam có họ hàng về mặt từ nguyên học.

Hoặc phụ âm này đơn thuần tương ứng với d, các hình thức Annam và Hán Việt có cùng phụ âm này. Không cần phải đưa ra các ví dụ - hoặc nó tương ứng với một âm răng, đ có gạch ngang, hay th. Ví dụ:

Hv: dung, thung, an.: thùng

Hv: du, an.: thua.

Hv: du, an.: thua (cuivre [đồng], tiếng Pháp)

Hv: du, an.: thừa

Hv: dược, an.: thuốc

Hv: gi, an.: để, vân vân.

Liên quan đến sự kiện này, chúng ta có thể xem không có gạch ngang của tiếng Annam đôi khi tương ứng với đ (có gạch ngang) của tiếng Hán Việt:

Hv: đao, an.: dao và đao

Hv: đai, an.: dây, vân vân.

Và cũng cần phải nhớ lại là có nhiều từ trong tiếng Hán Việt có hai hình thức, một với không có gạch ngang, một với th. Chẳng hạn, nói : hv: duyêt và thuyêt, tiếp tục: hv: duât và thuât.

Chúng ta có một bằng chứng mới cho thấy và gi trong tiếng Hán Việt nhất thiết phải là khác nhau, bởi vì chữ thứ hai tương ứng, trong các hình thức của tiếng Annam bình dân, với một âm đọc trong cổ và chữ thứ nhất, với một âm răng. Do đó, chúng không thể lẫn lộn và được diễn tả bằng một chữ duy nhất.

Và điều này cũng đúng ngay cả khi hai phụ âm đôi khi bị lẫn lộn, nghĩa là ngay cả khi có một số từ Hán Việt có hai hình thức, một với và một với gi. Điều này xảy ra chẳng hạn đối với: tất cả, Hv: dai và giai (hình thức đích thực, theo các phương ngữ Trung Hoa, là giai), cây cải cay, hv: giai và dai (hình thức đích thực là giai), quê kệc, hv: da và giai (hình thức đích thực là da).

Từ sự kiện một số chữ trong Hán Việt có một hình thức là và một hình thức là th (chẳng hạn: dung, thùng, tiếp tục: duât, thuât, vân vân) nên người ta phải lẫn lộn và th, và diễn tả hai phụ âm này bằng một dấu duy nhất chăng? Chẳng ai dám cho là như vậy. Đối với và gi của Hán Việt cũng vậy. Hai phụ âm này khác nhau về mặt từ nguyên học, bởi vì chúng tương ứng với các phụ âm khác nhau trong các phương ngữ Hán Việt và trong các hình thức Annam có họ hàng. Do đó, chúng phải được diễn tả bằng dấu khác nhau, mặc dù vài từ rất hiếm hoi chấp nhận một hình thức là và một hình thức là gi.

Giờ đây chúng ta thử tìm hiểu, vẫn chỉ là trong những nét chính, và gi của tiếng Annam.

Chúng ta đã thấy là Hán Việt tương ứng, trong các hình thức Trung Hoa, với nhiều âm: khi thì với bán nguyên âm y, khi thì với m, lsh (s), ch, t, th, ts. Nói cách khác, phụ âm mà tôi sẽ gọi là Trung Hoa, đọc thành l, y, ts, ch, t, th, bỏ ngoài một số khác biệt tinh tế.

Chữ của tiếng Annam là một Protée [một nhân vật liên tục có các vai trò khác nhau, xuất hiện dưới các hình thức khác nhau. ND] đích thực, có hình thức chập chờn và khó nắm bắt.

Nhưng các tác giả đồng ý với nhau dành cho nó các hình thức sau đây, hoặc trong cách đọc, hoặc với tính chất tương đương, khi một từ có nhiều hình thức phương ngữ: r, y, dz, dj, di, d, t, th (hãy so sánh Chéon, Cours, tr. 35, Cadière, Phonétique Annamite, tr. 67). Nghĩa là chúng ta bắt gặp, đối với của tiếng Annam, cũng một loạt các hình thức, hay gần như vậy, như đối với của Hán Việt hay Trung Hoa.

tương ứng với r, đọc là r, đổi thành r, liệu chúng ta có thể nói người ta đã bỏ ngoài vấn đề về ưu tiên của hình thức. Điều này được tất cả các tác giả đưa ra. Chúng ta có thể tham khảo, đặc biệt Dictionnarium của giám mục Theurel và Dictionnaire của Linh mục Génibrel có chỉ ra các từ bằng có hình thức là r. Hiện tượng này diễn ra chủ yếu ở Bắc Kỳ và một ít ở phía bắc Trung Kỳ. Cách đọc này tương đương với các trường hợp trong đó Hán Việt tương ứng với trong các phương ngữ Trung Hoa.

Thứ nữa là cách đọc d: tất cả các tác giả đều đề cập tới y. Hiện tượng này cũng diễn ra trong các phương ngữ Trung Hoa đối với Hán Việt.

Ngoài ra chúng ta còn có một cách đọc là dz vốn chấp nhận nhiều khác biệt tinh tế mà người ta có thể diễn tả bằng dz, dj, di. Theo tôi, cách đọc này diễn tả tính chất đích thực của phụ âm. Nó tương ứng với các trường hợp trong đó Hán Việt tương ứng với một âm răng xuýt (dentale sifflante) ts, hay với một âm ngạc ch, trong các phương ngữ Trung Hoa.

Cuối cùng, chúng ta còn có ưu thế của yếu tố răng của phụ âm, và chúng ta có, đối với một số từ, bên cạnh hình thức với d, một hình thức với đ (có gạch ngang) hay với th.

Nhờ vậy, chúng ta có dao và daodô danh và thô dèng, dụ, dỗ dành. Các trường hợp này thích ứng với các trường hợp trong đó Hán Việt có tương đương trong các phương ngữ Trung Hoa là các âm răng hay th.

Như vậy, chúng ta thấy có một sự song song gần như hoàn hảo trong sự phát triển, trong các biến đổi của phụ âm trong tiếng Hán Việt và trong tiếng Annam. Điều này đã có thể cho phép chúng ta kết luận là của tiếng Annam khác với gi của tiếng Annam, cũng như Hán Việt khác với gi Hán Việt.

Tuy nhiên, chúng ta cũng thử xem gi của tiếng Annam có theo một diễn tiến giống hệt với diễn tiến của hay không. Bước đi của gi hoàn toàn khác, d, bởi một lộ trình ba, chỗ này dẫn đến phụ âm lỏng r, chỗ nọ tới bán nguyên âm y, chỗ khác với các âm răng thuần túy; ngược lại, gi phát triển bình thường trong nhóm các âm ngạc và trở thành ch hay tr (so sánh Chéon, trg. 36, Cadière, trg. 59).

Như vậy chúng ta có hai phụ âm phát triển theo các định luật riêng, biến hóa một cách khác nhau, ngang qua những hình thức khác nhau để tới những điểm trái nghịch nhau, nói tóm lại, hai phụ âm khác nhau phải được diễn tả bằng hai ký tự khác nhau.

Điều này không ngăn cản hai phụ âm ấy, trong tiến trình của chúng, có những điểm gặp gỡ. Chúng ta đã thấy là giữa và gi Hán Việt có một số từ, khá hiếm, chấp nhận một hình thức với và một hình thức với gi.

Hiện tượng tương tự cũng diễn ra với tiếng Annam, nhưng thường xuyên hơn. trong tiếng Annam, trong vô số các biến chuyển khác nhau của nó, đã đi tới hình thức hay dz, dj, tiến gần tới âm di. Từ đó dẫn đến nhiều sự lẫn lộn. Ở Bắc Kỳ, ở Trung và Nam Kỳ, tại một số miền và gi được đọc theo cùng một kiểu. Điều này có nghĩa gì? và gi giống nhau à? Không phải vậy. Chỉ có nghĩa là từ này hay từ nọ, thậm chí tính khái quát của các từ, có hai hình thức, một với d, được dùng tại miền này miền nọ, một hình thức với gi, được sử dụng trong các miền khác. Bởi vì từ có nghĩa là mái nhà để nước lọt vào được gọi là dột tại đa số nơi, và trong một số miền, có hình thức thôi, liệu chúng ta sẽ diễn tả và th bởi cùng một ký tự? Chúng ta cũng không nên lẫn lộn và gi dưới cùng một chữ.

và gi là hai phụ âm vốn phát triển theo đường riêng của chúng; d, trong đường đi khúc khuỷu của mình, nghĩa là qua nhiều hình thức, vào một số lúc, tiến gần tới hướng đi bình thường của gi và lẫn lộn trong cách đọc với phụ âm này. Lẫn lộn khác với sự đồng nhất. Có hai hình thức thì chúng ta diễn tả hai hình thức. Hãy làm như những người đã đi trước chúng ta. Từ điển Dictionnarium của Giám mục Theurel lưu ý đặc biệt các từ với vốn có hình thức với gi tại Bắc Kỳ, và các từ có hình thức với r.

Từ điển của Linh mục Génibrel lưu ý các từ có hình thức với và hình thức với gi, hình thức với và hình thức với r, hình thức với và hình thức với nh, với gi và với nh; người ta cũng lưu ý các từ vốn có hình thức với thanh nặng và thanh sắc, thanh hỏi và thanh ngã, thanh không và thanh huyền xuống. Tôi gọi đó là một cách làm logic, hợp lý, khoa học, rõ ràng và mềm dẻo. Nếu người ta muốn thay đổi chữ quốc ngữ cổ truyền, tôi thậm chí có thể nói, nếu muốn hoàn chỉnh nó, hãy dùng để diễn tả d, j để diễn tả gi. Các lời chỉ trích sẽ ít hơn và những người chỉ trích sẽ có ít lý do hơn. Nhưng làm như ông Nordemann đề nghị trước kia, và tiếc thay như người ta đã quyết định trong thời gian gần đây, là diễn tả và gi (thậm chí cả r!) bởi cũng một ký tự, sẽ là một cách làm mò mẫm, trái với tất cả các nguyên tắc khoa học, bởi vì trái nghịch với thực tại, là sự nhầm lẫn được hệ thống hóa, tất cả những ai học tiếng Annam theo hệ thống sẽ không tài nào có được một kiến thức chính xác về tiếng Annam, tôi không nói chỉ có một trí thức hợp lý và khoa học, mà một sự hiểu biết thực tiễn, theo cách có thể làm cho người ta hiểu được. Diễn tả và gi bởi một ký tự duy nhất là xóa bỏ chỉ bằng một nét bút công việc phân tích kiên nhẫn và tinh tế những người sáng chế ra chữ quốc ngữ đã theo đuổi trong thời gian dài để tách bạch các từ vốn lấy lại hai phụ âm này; là đưa vào trong việc Latinh hóa tiếng Annam cái khó khăn chính yếu đã làm cản trở việc Latinh hóa tiếng Hán Việt và các phương ngữ Trung Hoa, tức một số lớn các từ được xếp trong cùng một cách viết; cuối cùng, về phương diện sư phạm, là cho người trẻ Annam những khái niệm sai lầm về chính ngôn ngữ của họ và tạo ra sự lẫn lộn trong ý tưởng của họ.

                8. “sẽ được viết thành ç

Đây là một cải cách sẽ làm hài lòng nhiều người Pháp đang học tếng Annam. Nhưng nếu trong thực tế diễn tả một phụ âm bật hơi, như ông Aymonnier nghĩ, Nos transcriptions, trg. 26, thì liệu cách viết mới, tiện dụng hơn đối với người Pháp, sẽ chính xác hơn? Thêm một vấn đề mà người ta đã quên làm sáng tỏ trước khi có một quyết định. Một cách viết tiện dụng hơn à? Có thật vậy không? Học viên khi đọc thấy chữ sẽ được cảnh báo là anh ta đang đứng trước ký tự của một âm khác thường. Anh ta sẽ cố gắng để nắm bắt được âm này. Từ nay, người Pháp khi nhìn thấy ç sẽ nghĩ rằng phụ âm Annam được diễn tả bằng ký tự này, sẽ được đọc như ç trong tiếng Pháp và anh ta sẽ đọc như vậy và thế là anh ta đọc sai, và có lẽ sẽ không nghĩ tới việc sửa cách đọc của mình. Cách viết mới này liệu có tiện lợi hơn không?

Dẫu sao thì chúng ta cũng phải xem là may mắn vì người ta đã không lẫn lộn đến độ diễn tả hai âm và hiện nay bằng một ký tự duy nhất. Một số người muốn điều này. Đó là một sai lầm thô thiển nữa.

                9. “sẽ không còn khi đứng sau hay ng (âm họng kêu hay âm mũi… họng) trước hay e”. Tôi nghĩ phải thêm ê

Và nếu âm họng kêu của tiếng Annam lại là âm xuýt, như một số tác giả chủ trương, thì thay vì bỏ trong ghi, ghê, ghe, sẽ chẳng hay hơn nếu dùng cả trong ga, go, gu, gô? Một công trình nghiên cứu trước hẳn là đã đem lại một chút ánh sáng cho các thành viên của Hội đồng Cải cách Học chính địa phương.

Dẫu sao, cách viết ge, gi, gê, ge, về phương diện thực tiễn, xem ra cũng chẳng được học viên người Pháp ưa chuộng mấy.

                10. “Quy tắc đặt dấu trên hoặc dưới nguyên âm trội nhất cần phải được tuân thủ một cách nghiêm nhặt”

Cần phải nhắc nhở quy tắc này cho các tác giả, nhất là nhà in. Nhưng người ta lại quên mất không định rõ, trong các nhóm khác nhau, đâu là nguyên âm trội nhất. Các tác giả không thống nhất ý kiến về một số điểm. Phải chăng người ta muốn để các tác giả và nhà in tự giải quyết lấy vấn đề?

Chúng ta kết thúc phần phê bình các cải cách mới được chấp nhận. Khi phê phán các đề nghị, tôi đã dựa trên các tác giả có uy tín trong vấn đề và trên chính các sự kiện, và tôi nghĩ là mình đã không đi chệch khỏi các nguyên tắc của một phương pháp khoa học nghiêm nhặt. Giờ đây chúng ta có thể thấy rằng nhận xét của tôi ở đầu bản tìm hiểu này chẳng có gì là phóng đại. Cuộc cải cách vừa được công bố là một cuộc cải cách đẻ thiếu tháng, giải quyết trước khi có những nghiên cứu đầy đủ về những vấn đề khó khăn và tế nhị nhất mà thường người ta không nghĩ đến; tóm lại đây là một cuộc cải cách chưa đầy đủ và chưa trọn vẹn, đưa vào cách viết tiếng Annam những điều dị thường không có lý do; đây là một cuộc cải cách dựa trên một sự hiểu biết hời hợt và vụn vặt về tiếng Annam, nên đã dẫn tới sự lẫn lộn trong ngôn ngữ và thừa nhận những lý thuyết sai lầm.

Tôi kính trọng tất cả những ai đã bỏ ra nhiều nỗ lực để học tiếng Annam và tất cả những ai đã giúp người khác trong việc này. Tôi hết lòng mong ước tất cả các đồng hương của tôi có thể nói và hiểu được tiếng Annam. Nếu được như vậy, nhiều khuyết điểm làm vẩn đục việc điều hành của chúng ta sẽ được loại bỏ, và công trình đồng hóa, nâng cao người bản xứ đã có thể tiến được một bước lớn. Nhưng tôi không thể chấp nhận việc người ta không chịu đào sâu vô số vấn đề về ngôn ngữ mà thực hiện cải cách một cách thiếu suy nghĩ. Chữ Quốc ngữ là công trình của những thế hệ con người thông minh và khôn khéo, vốn muốn ghi lại một cách chính xác nhất có thể các âm chập chờn và nhiều vô kể của tiếng Annam và đồng thời thực hiện công trình thực tiễn, nghĩa là giúp người ngoại quốc học tiếng một cách dễ dàng. Công trình chưa hoàn hảo, mọi người đều có thể nhận ra. Nhưng chúng ta có thể hoàn chỉnh nó, chúng ta có thể làm nó thích nghi tốt hơn với nhu cầu hiện tại.

Nhưng các cải cách mà người ta sẽ chấp nhận phải là một bước tiến bộ chứ không phải thụt lùi, chúng phải là kết quả của một nghiên cứu sâu sắc, có thể thỏa mãn các phê phán chính đáng được nêu lên, để ý tới những kết quả đã đạt được.

Nếu những người làm việc khiêm tốn đã kiên trì triển khai chữ quốc ngữ trở lại trên thế gian này, họ hẳn là sẽ nhìn trang cuối cùng của biên bản các phiên họp của Hội đồng Cải cách Học chính địa phương với một chút mỉa mai. Công trình của các nhà cải cách hiện đại trả thù họ bằng những chỉ trích vô căn cứ đối với các hệ thống của họ, bằng sự coi thường các nỗ lực của họ: ây trở thành êiqua sẽ viết là koavà gi sẽ được diễn tả bằng một ký tự duy nhất. Và người ta gọi đó là một cải cách! Người ta hý hửng là đã điều chỉnh và đơn giản hóa hệ thống cổ truyền!

Đó là những kiến thức hời hợt và vụn vặt về tiếng Annam, như tôi đã nói trên đây. Trong các vấn đề này, nhiều người phán quyết theo bề mặt. Họ tin ở cái tai nhiều khi không được tập luyện, của họ. Họ không đi tới cùng sự việc. Họ quên rằng trước họ nhiều người khác cũng có tai, nhiều người khác trước họ cũng biết nghe, biết suy nghĩ, biết so sánh, thậm chí có thể nói, đã có thể so sánh, điều mà nhiều người ngày nay không làm, không nghĩ là phải làm. Để có quyền giải quyết một số khó khăn, để có thể đưa là một ý kiến về các vấn đề được tranh cãi, cần phải biết ngôn ngữ trong tổng thể của nó, nghiên cứu nó một cách sâu sắc. Các âm cũng như các từ có sự sống của chúng. Gốc rễ của chúng lên tới tận những thời xa xưa nhất, và qua các nhánh của chúng, chúng sẽ tồn tại trong các thế kỷ sẽ tới. Chúng trở nên đa dạng, chúng trộn lẫn với nhau, lồng vào nhau mà vẫn có những khía cạnh khác biệt. Chúng ra đời, sự ra đời vốn chỉ là một biến đổi, chúng phát triển, trở nên cường tráng hay suy yếu, chết đi, cái chết của chúng là một biến đổi mới. Chính sự hiểu biết này về ngôn ngữ là cái người ta cần có khi lãnh trách nhiệm làm một cuộc cải cách liên quan đến tương lai. Và nếu một mình ai đó không có trọn vẹn sự hiểu biết này, y có bổn phận của quyền uy cầu cứu mọi ánh sáng.

Một số người khác đã học tiếng Annam với một thầy dạy hay tại một miền nhất định. Họ tin rằng người thầy ấy, những người ở miền ấy có độc quyền đọc đúng, có ngôn ngữ chính xác, đại diện cho ngôn ngữ, cô đọng trong cách nói của họ toàn bộ các hình thức, các từ, các cách diễn tả của ngôn ngữ Annam. Có bao nhiêu là từ được sử dụng tại Bắc Kỳ nhưng lại không được biết tới ở Trung hay ở Nam Kỳ, hay có một ý nghĩa khác, một cách dùng khác tại các miền này, và ngược lại! Chúng ta sẽ nói sao về một tác giả muốn làm một từ điển tiếng Annam nhưng chỉ đưa những từ và những cách nói được sử dụng ở Hà Nội hay vùng lân cận? Công trình của y chỉ có tính cách rời rạc.

Cũng vậy, một số lớn các hình thức được đặt về lại trong vùng này, vùng nọ, lớn nhỏ khác nhau. Chúng có một tầm quan trọng thiết yếu để định rõ các yếu tố về từ nguyên học của tiếng Annam, cho việc học tiếng trong tổng thể của nó. Không đếm xỉa tới chúng với lý do là chúng đã bị đọc sai, không thuộc thứ ngôn ngữ tinh ròng, nghĩa là, trong phần đọc, trong ngôn ngữ của miền, nơi người ta đã học tiếng Annam, là liều lĩnh mắc phải những sai lầm nghiêm trọng. Một công trình đặt nền tảng trên những nguyên tắc ấy sẽ luôn thiếu sót, nhiều khi sai lầm, dù có chứng tỏ được nhiệt tình, tài ba của mình đến đâu, vả lại, bởi vì công trình thiếu nền tảng, bởi vì nó không được bắt đầu và triển khai một cách khoa học. Từ đó, nó sẽ không có tính thực tiễn, hữu ích.

Đó là những khuyết điểm trầm trọng mà tôi chê trách về cuộc cải cách vừa được thông qua này.

P. Cadière

B. Bài viết của Lucien Bauno

Đăng trên Avenir du Tonkin số ra ngày 4. 1. 1907

Tôi đã ba lần trao đổi về quốc ngữ với các độc giả của Avenir quan tâm đến các vấn đề thuộc ngôn ngữ học. Là một người học tiếng Annam không vụ lợi, tôi chỉ có thể nói phớt qua về vấn đề, không dám đi sâu như ông Cadière đã làm trong năm bài báo được đăng mới đây, ngay trên tờ báo này, và hẳn là đọc giả người Annam đã đọc một cách thích thú thực sự. Tôi rất vui khi nhận thấy, về đa số các điểm tranh cãi, tôi đã thấy mình đúng khi ủng hộ truyền thống chống lại các nhà canh tân.

Theo các ông Chéon và Cadière, â diễn tả một âm vòm mềm vốn không thể được diễn tả bằng ê; lẫn lộn trong một phụ âm duy nhất hai âm dz và là một sai lầm, dz vốn là một âm răng chứ không phải một âm ngạc; còn viết koa thay cho qua là một kiểu dùng từ phản quy tắc: đó là điều tôi không ngừng nói đi nói lại.

Mặt khác, người ta không thể đưa ra một phản bác có tính khoa học chống lại việc thay thế bằng dz, k bằng cbằng gbằng không có gạch ngang.

Tuy nhiên, có hai điểm mà tôi không thể nào đồng ý với các kết luận của Hội đồng Cải cách Học chính địa phương cũng như của Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp. Đây là một ý kiến hoàn toàn có tính cá nhân tôi muốn trình bày và hẳn là xuất phát từ môi trường Bắc Kỳ, nơi tôi đuợc bố trí, cũng như ý kiến của ông Cadière chịu ảnh hưởng của các phương ngữ Nam Kỳ. Quả là ngạo mạn khi một mình đi ngược lại các kết luận của những vị quá ư là uyên bác, nhưng vì tôi có truyền thống của tôi, nên tôi cũng sẽ lên tiếng.

Đó là vấn đề về và về q.

Trước hết là tại sao lại cứ khăng khăng dành cho giá trị của một bán nguyên âm i? Chắc chắn không phải vì mục đích để Pháp hóa. trong tiếng Pháp không có một bán nguyên âm nào ngoài nó. Ví dụ: tien, lieu. (So sánh với các từ Annam liêng, tiêng, được đề nghị viết thành lyêng, tyêng)! Ngược lại ở đây không hề là nguyên âm duy nhất: ở đây, nó chỉ chấp nhận ba âm: âm của phụ âm ở đầu các từ yatagan; âm nguyên âm ở giữa: Babylone; - âm kép ở giữa các từ sau một nguyên âm: pays, và chúng ta nên để ý là chính cái giá trị sau cùng này mới là giá trị, duy nhất, đã được Hội đồng xét lại việc viết tiếng Pháp chấp nhận. Nhưng như vậy, người ta đã nói gì với chúng ta về bán nguyên âm của i? Tại sao không tạo ra những bán nguyên âm trong lia, kia, trong đó âm của nguyên âm này được làm dịu đi rất nhiều đến độ với các từ này không hợp vần với la và ka, mà là với li và ki? Tại sao không phải là một bán nguyên âm ê trong lêu?- trong hoa?- trong luân?- (Pháp) trong thua?

Chắc chắn là các nhà cải cách của chúng ta đã đi sai đường khi muốn phân biệt qua cách viết hai nguyên âm có hai âm giống hệt nhau, nhưng có trường độ khác nhau. Các nhà sáng chế ra chữ quốc ngữ cổ truyền có thể đã có lý hơn khi chấp nhận hai chữ cho hai âm khác nhau? cho âm điếc và cho âm sắc hay hai không phân biệt dài hoặc ngắn.

Chúng ta hãy lấy, chẳng hạn, các nguyên âm đôi ai, ui, ay và uy. Chúng ta phân biệt rõ ràng hai điếc và cao, chứ không phải các âm giống nhau, như người ta nói với chúng ta. Thử lấy các từ tương đương trong tiếng Pháp: ail, ébloui, aie và oui, các bạn có thấy sự khác biệt không? Liệu có thể nói trong ai đọc như trong ui và trong ay như trong uy? Không. Bạn hãy đọc bốn nguyên âm đôi trên đây bằng cách đánh dấu ngã lên trên, khi tách ra, bạn sẽ có hai ngữ điệu được tạo nên bởi dấu ngã này, đối với ai là à-ái, đối với ui là ù-i, đối với ay là à-i hay ai-i, đối với uy là ùy- i. Dầu vậy, chắc chắn âm là âm điếc trong hai trường hợp đầu và đôi hay cao trong hai trường hợp cuối, đó là điều các nhà sáng chế ra chữ Quốc ngữ đã hiểu khi sử dụng hai dấu ghi, và sẽ là vu oan cho họ khi gán cho họ ý định, vì lý do điều chỉnh âm của nguyên âm đi trước, thay đổi nguyên âm đi sau. Thật ra trong các nhóm ai và ui, ay và uy không chỉ các nguyên âm đầu mà cả các nguyên âm cuối cũng khác nhau. Chỗ kia là và dài với điếc, chỗ này là và bán nguyên âm với cao hay kép. Liệu người ta có thể đặt trên và gắn chùm với dấu của âm ngắn, dĩ nhiên rồi, nhưng có cần thiết không? Quy tắc về vị trí không đủ sao? Theo ý tôi, người ta đã lầm khi muốn tạo ra sự khác biệt về cách viết mỗi âm và mỗi sắc thái. Người ta sẽ đi tới chỗ làm ra một thứ chữ quốc ngữ phức tạp đến độ chẳng tài nào viết hoặc lần ra được. Nếu luôn luôn ngắn trước u, ch, nh vv., thì việc gì phải đánh cho nó cái dấu ngắn? Nếu luôn luôn ngắn trước a, c, p, t, tại sao lại phải đánh dấu cho nó? Đối với các chữ khác cũng vậy. Chữ quốc ngữ đã có quá nhiều dấu, nhiều chấm và nhiều dấu hiệu!

Vậy để tóm tắt điểm thứ nhất này, việc thay thế bằng và bằng i, như Trường Viễn Đông Bác cổ mong muốn thật chẳng hiển nhiên chút nào và trong mọi trường hợp, chẳng khoa học hay mang tính cách Pháp hơn, hay thay ở cuối bằng với dấu mũ như Hội đồng Cải cách Học chính địa phương đã quyết định.

Giờ đây chúng ta hãy bàn về các vấn nạn làm động cơ cho việc loại bỏ chữ q. Người ta buộc tội những người sáng chế chữ quốc ngữ cổ truyền là đã “thiếu logic” khi chấp nhận hai chữ và để diễn tả một phụ âm ngạc duy nhất. Chúng ta có thể lưu ý là cũng lời trách cứ này, nếu có cơ sở, cũng áp dụng cho tiếng Pháp. Nhưng thực ra, và đã chẳng khác nhau về cách đọc hay sao? Cùng với các nhà ngữ pháp học gần đây nhất, tôi không ngần ngại trả lời là có. diễn tả âm ngạc nổ đọc trong họng, là âm vòm mềm. Ở đây có một sắc thái không thể phủ nhận. Chữ Quốc ngữ cổ điển nhìn nhận sắc thái này trong cách viết của nó; nhưng thứ kuốk ngữ cải cách đã lẫn lộn. Khoa học đứng về phía nào?

Mặt khác, việc duy trì chữ là cách thức duy nhất, vừa thực tiễn, vừa khoa học để diễn tả một loạt âm qua, quan vân vân. Chúng ta chấp nhận cách viết koa, nhưng đây là một cách dùng phản quy tắc. Quý vị trách chữ quốc ngữ, - nhưng là trách sai như chúng ta đã thấy- về việc sử dụng hai dấu cho cùng một âm, và quý vị tìm cách thay thế bằng hai cách viết cho một từ duy nhất! Qua sẽ viết là koa hay kua tùy theo dấu! Nhưng một người Annam không bao giờ chấp nhận một sự bất thường như vậy! Đây là câu chuyện về cái xà và cọng rơm!

Cùng với Trường Viễn Đông Bác cổ, chúng ta sẽ viết kwa thay cho qua! Chẳng hơn gì, và vì hai lý do: thứ nhất và là và phải là khác nhau, thứ hai, không diễn tả đúng âm trong qua, âm vòm mềm và khác với âm của trong kua gần giống ou trong các từ tiếng Pháp cou và gout (trên có dấu mũ). Cả ở đây nữa, người ta thấy dấu hiệu về sự bận tâm của các nhà Đông phương học thông thái muốn phân biệt về cách viết bán nguyên âm trong qua và nguyên âm trong kua. Nhưng sự khác biệt tinh tế này đã chẳng được quy tắc về vị trí diễn tả một cách đầy đủ và khá khoa học rồi sao? âm môi kêu đáp ứng cho kđiếc hay vòm mềm đáp ứng cho q.

Hơn nữa, quý vị không thấy rằng, với lý do loại bỏ một điểm dị thường, quý vị lại chấp nhận một điểm dị thường khác đó sao? Quý vị không muốn có hai chữ để diễn tả một âm ngạc, nhưng quý vị lại chấp nhận tới hai, và cho một âm duy nhất! Quý vị đừng nói với tôi rằng một là nguyên âm và một là bán nguyên âm. Tôi xin trả lời quý vị trước hết là không có nguyên âm nào của bảng chữ cái lại có dấu phân biệt để diễn tả bán nguyên âm của mình, và chẳng có lý do gì để vi phạm quy tắc này vì chữ cả, - và quý vị lấy quyền gì để lẫn lộn hai chữ được các nhà ngữ pháp học xem như thực sự khác nhau?

Bởi vậy, tôi thấy mình có quyền để kết luận rằng các kết hợp mà các nhà cải cách đưa ra để thay thế và là không thế chấp nhận được về mặt khoa học. Đây không phải là một bước tiến, mà là một bước lùi thì có.

Nếu người ta cứ bám vào các thay đổi tôi kể trên đây khi bắt đầu, tức trong tiếng Pháp thay vì có gạch ngang, thay vì không có gạch ngang, thay vì gthay vì c, những thay đổi được mọi người chấp nhận, thì một đại diện người bản xứ sẽ chẳng lên tiếng giữa Hội đồng Bảo hộ, những lời phản đối, như chúng ta biết. Những người được bảo hộ của chúng ta là những người bảo thủ do tính khí: họ không quen, như chúng ta, thay đổi các chương trình cũng như các bộ. Với họ, tôi nghĩ rằng hiện nay, không thích hợp để thực hiện các cải cách được mọi người chấp thuận, và đó là những cải cách người ta vừa đọc trên đây. Còn về những cải cách chưa có được sự thống nhất ý kiến, vì trong các “phe” khác nhau, người ta thấy đều có những người am tường ở trình độ ngang nhau, và mặt khác, sự việc không có gì cấp bách, chúng ta nên gác lại sau này và duy trì cách viết cổ điển vào lúc này.

Khi có sự thỏa thuận, chúng ta sẽ tính.

Lucien Bauno

V. Hội đồng Cải cách Học chính Nam Kỳ Khóa họp năm 1906

Trích biên bản phân tích phiên họp ngày 23.11.1906

Việc cải cách chữ quốc ngữ đã được đưa ra tìm hiểu. Hội đồng Cải cách Học chính Đông Dương, để Pháp hóa, hợp thức hóa, đơn giản hóa chữ quốc ngữ, trong phiên họp ngày 20. 4, đã đưa ra một số điều chỉnh nhỏ để Hội đồng Cải cách Học chính địa phương xem xét.

Ông Boscq không nghĩ rằng Hội đồng, được thông báo một cách quá muộn và không có tài liệu, có thể có được một cuộc thảo luận quan trọng như vậy, ngoài ra, ông còn cho rằng quả là thiếu khôn ngoan khi muốn ấn định trên Nam Kỳ một cuộc cải cách được thực hiện tại Bắc Kỳ.

Ông Cương đồng ý với ý kiến này và muốn duy trì chữ quốc ngữ hiện tại.

Ông Assan-Achou nói “Trước khi bàn luận vào các chi tiết của vấn đề, tôi yêu cầu trước tiên Hội đồng nên đưa ra ý kiến về dự án này: Nam Kỳ có nhu cầu tiến hành một cuộc cải cách chính tả cho chữ quốc ngữ không? Từ ba mươi năm nay, cách viết này đã thịnh hành tại Nam Kỳ và cả một hệ thống tài liệu đã được ấn định dưới hình thức này. Việc áp dụng biện pháp được đề nghị hẳn sẽ dẫn đến một sự xáo trộn lớn trong thói quen tri thức của tất cả những người -mà con số không phải là nhỏ- đã quen với cách viết này.

“Đối với Bắc Kỳ, vốn đang ở vào thời kỳ đầu, khi chưa có một cuốn sách nào được viết ra, chúng tôi hiểu rất rõ là người ta muốn hoàn chỉnh tối đa dụng cụ trước khi đưa nó ra sử dụng, và người bản xứ không mấy quan tâm tới việc bảng chữ cái được hình thành bằng cách này hay bằng cách nọ.

“Ở đây, tôi e rằng nếu đưa ra hỏi ý kiến của người bản xứ, họ sẽ chống lại mọi điều chỉnh không phải vì họ bảo thủ, cũng không phải vì họ nghĩ rằng chữ quốc ngữ không còn có thể cải tiến thêm, mà vì họ đã sử dụng chữ quốc ngữ cho đến hiện tại mà không thấy vướng mắc, họ không hiểu tại sao người ta lại gây rối cho họ trong thói quen của họ, trong khi các thể chế hành chính của chúng ta đã làm họ lúng túng không ít. Chỉ nay mai thôi, họ sẽ không còn có thể đọc sách, thư luân lưu, đọc trát, các từ chẳng còn hình dạng quen thuộc. Họ chẳng còn có thể nhận ra chúng”.

Ông Chủ tịch “Chúng ta có thể nghĩ rằng chữ quốc ngữ hiện nay khó hiểu? Tất cả những ai đã bắt đầu việc nghiên cứu này đều sẽ nói với chúng ta rằng họ rất thích hợp với cách viết này và chỉ vài ngày học là đã đủ cho họ…

Tôi hiểu rằng chữ quốc ngữ có khả năng biến đổi như tất cả các chữ viết khác, nhưng tôi mong muốn rằng sự điều chỉnh sẽ diễn ra qua sử dụng trước khi trở thành bắt buộc: việc sử dụng là người thầy duy nhất trong lĩnh vực này”.

Ông Assan-Achou “Vả lại, các sự điều chỉnh được đưa ra có cho thấy sự cần thiết cấp bách và tính cách hiển nhiên rõ ràng khiến mọi người đều có thể chấp nhận ngay? Tôi xin nhắc lại, và ở đây tôi dựa vào chứng từ của ông Chủ tịch Thượng Hội đồng Cải cách, rằng các sự điều chỉnh này chỉ được chấp thuận tại Bắc Kỳ sau một cuộc tranh cãi gay gắt. Phải sau hai hay ba buổi họp mới có được một đa số ủng hộ. Những điều chỉnh vốn được xây dựng trên những nền tảng không mấy chắc chắn, lấy những xác tín không mấy vững vàng để làm điểm tựa, cần phải được xem xét và đón nhận với một sự thận trọng tối đa.

Là những đại biểu của Nam Kỳ tại hội nghị loại này về nền Học chính địa phương, chúng ta tránh không đứng về một phía nào trong cuộc tranh luận. Một mặt, tôi không thể đi ngược lại các nguyên tắc thuộc ngữ văn học do các bậc thầy trong ngành đưa ra, mặt khác, tôi cũng thấy trước sự xáo trộn tiếp theo sau việc tôn phong chữ quốc ngữ khi muốn đưa nó vào hàng ngũ các ngôn ngữ khoa học. Tôi thấy việc chữ quốc ngữ, nhờ sự biến chuyển của nó, có thể được đọc bởi một nhà ngữ văn học thậm chí không biết tiếng Annam là thích hợp, nhưng tôi cũng nghĩ tới các địa bộ, sổ hộ tịch, giấy chứng nhận quyền sở hữu viết bằng chữ quốc ngữ hiện nay, qua đó chứng thực một sở hữu nhà nước đáng được trân trọng.

Do đó, thưa quý vị, với một chút dè dặt, chúng ta xin dành lại cho Bắc Kỳ, nhưng chính quý vị cũng phải đưa ra ý kiến về điểm này:

Tại Nam Kỳ, chúng ta có nhu cầu tiến hành một cuộc cải cách chữ quốc ngữ không? Một cuộc cải cách chữ quốc ngữ có cần thiết hay có ích lợi tại Nam Kỳ hay không?

Ông Cương: “Các thừa sai người Pháp và Bồ Đào Nha tại Annam thế kỷ XVI đã tìm cách Latin hóa cách viết của xứ này vì nhu cầu của việc thi hành chức vụ linh mục của họ. Họ đã nhờ, một cách hoàn toàn tự nhiên, sự giúp đỡ của các linh mục bản xứ mà chính họ đã đào tạo. Những người này xuất thân từ tỉnh Nghệ An. Vùng công giáo đầu tiên được thiết lập là vùng Cái Đoài trong tỉnh này. Quốc ngữ tiên khởi, thuần túy nhất, được sử dụng một cách giới hạn tại các họ đạo và chỉ phát triển thực sự tại Nam Kỳ từ ngày Pháp chiếm Nam Kỳ. Sau năm mươi năm hiện hữu, nó đã trở thành chữ quốc ngữ của chúng ta chứ không còn là một cách phiên âm, và với danh nghĩa này, tôi xin Hội đồng bỏ phiếu giữ nguyên tình trạng statu-quo, thuần túy và đơn giản vậy thôi.”

Ông Foucher hỏi ông Cương là ông này có tìm hiểu một điểm điều chỉnh nhỏ nào đó do Hội đồng triển khai trước khi yêu cầu bác dự án hay không.

Ông Cương xem xét đến sự điều chỉnh đầu tiên có nội dung thay ây bằng éi.

“Nơi các dân tộc châu Âu, ông nói, có một bảng chữ cái chung, nhưng các dấu của bảng chữ cái này không có cùng giá trị nơi tất cả các nước. của người Anh có ba âm khác nhau, â của chúng ta có một giá trị ước lệ do quá trình sử dụng đáp ứng tất cả các nhu cầu của chúng ta và tôi nghĩ là chẳng cần phải thay thế bằng một giá trị ước lệ khác. Tôi xin nói thêm là các điều chỉnh mà Hội đồng thông qua thật ra không có mục đích nào khác là phiên âm các khiếm khuyết trong cách đọc của người Bắc Kỳ, vốn như những người bản xứ ở Chợ Lớn, trong ngôn ngữ của họ, đã tìm cách bắt chước người Hoa mà họ có dịp tiếp xúc trong buôn bán hàng ngày và làm sao để người Hoa hiểu họ nói gì là điều chỉ có lợi cho họ.

“Chẳng hạn, ch đã thay thế tr của tiếng Annam và Trăm được đọc là Châm trong tiếng Annam - Trung Hoa.

Nếu chúng ta đồng ý là ngôn ngữ tòa giảng và sân khấu là ngôn ngữ trong sáng nhất của một dân tộc thì chúng tôi, những người Annam, chúng tôi yêu cầu dành cho chữ quốc ngữ cái vinh dự này và khẳng định rằng ngôn ngữ Nam Kỳ là ngôn ngữ cổ điển của triều đình Annam, của sân khấu và với danh nghĩa đó, không nên có những điều chỉnh để trở nên phù hợp với ngôn ngữ Bắc Kỳ”.

Nguyên tắc của cải cách chữ quốc ngữ đã được đặt ra. Một cuộc tranh luận đã diễn ra giữa các ông Cappe, Assan-Achou và Maspero vốn chấp nhận và các ông Bocsq và Cương bác bỏ vì sợ rằng việc cải cách sẽ đem lại những nghi ngờ, do dự trong việc làm giấy tờ và do đó dẫn đến các vụ kiện tụng.

Ông Maspero “Quả là đáng tiếc khi loại bỏ nguyên tắc về tính có thể được hoàn thiện hóa của chữ quốc ngữ, không có gì là hoàn hảo cả, mọi thứ đều có thể được làm cho tốt hơn, và nếu chúng ta bác bỏ nguyên tắc này, chúng ta sẽ liều mình bị đánh giá là phá rối một cách cố chấp, dấu hiệu của tâm ý hẹp hòi.

Do đó, tôi yêu cầu ông Chủ tịch cho bỏ phiếu kiến nghị sau đây:

Hội đồng Cải cách Học chính Nam Kỳ chấp nhận nguyên tắc về việc nghiên cứu một sự điều chỉnh chữ quốc ngữ, nhưng nghĩ rằng việc nghiên cứu này, được thực hiện với tinh thần đơn giản hóa và tiến tới gần tiếng Pháp chỉ có thể được thực hiện tốt bởi Hội đồng Cải cách Học chính Nam Kỳ và trong bất cứ trường hợp nào cũng không được áp đặt một cách gấp rút”.

Thỉnh nguyện này đã được mọi người thông qua.

Một tiểu ban phụ trách công việc này đã được thành lập tức khắc và gồm các ông:

Maspero: Chủ tịch

Và các thành viên: Assan-Achou, Bocsq, Trung, Cương, Tuan.

Dĩ nhiên tất cả các thành viên của Hội đồng đều có thể tham gia các công việc của tiểu ban này khi họ ở Sài Gòn.

Mặt khác, theo đề nghị của ông Trung, báo Journal officiel sẽ thông báo rộng rãi để dân chúng biết là có một cuộc điều tra được tiến hành nhằm tìm hiểu các điều chỉnh áp dụng cho chữ quốc ngữ hiện tại và Tiểu ban phụ trách việc tìm hiểu này sẵn sàng tiếp nhận và xem xét tất cả các ý kiến.

Ông Foucher mong muốn Hội đồng Cải cách Học chính Nam Kỳ chuyển các kết luận của mình lên Hội đồng Cải cách Học chính Đông Dương vào kỳ họp tới.

Hội đồng hứa là sẽ thực hiện mong muốn của ông.

Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 110 (tháng 1 & 2 năm 2019)

Nguồn: HĐGM VN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét