Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2018

THÁNH GIÁM MỤC STÊPHANÔ CUÉNOT (THỂ), ĐẤNG KHAI SÁNG MIỀN TRUYỀN GIÁO KONTUM




THÁNH STÊPHANÔ CUÉNOT (THỂ), GIÁM MỤC TỬ ĐẠO
ĐẤNG KHAI SÁNG MIỀN TRUYỀN GIÁO KONTUM
(1802-1861)

 Kết quả hình ảnh cho Cuenot Thể

 

·         Sinh : 08/02/1802 - Tại : Le Bélieu, Doubs, Pháp
·         Giáo phận : Besançon
·         Linh mục : 24/09/1825
·         Lên đường truyền giáo đến Nam Kỳ, Việt nam:   27/01/1828
·         Giám mục : 03/05/1835 - Hiệu tòa Métellopolis 
- Giám mục phó Gp Tông tòa Đàng Trong : 1835-1840 
- Giám mục Gp Tông tòa Đông Đàng Trong : 1840-1864
·         Qua đời : 14/11/1864      -Tại Bình Định
·         ĐGH Lêô XIII phong Ngài lên Bậc Đáng Kính : 13/01/1899
·         ĐGH Piô X phong Ngài lên Chân Phước : 02/05/1909
·         ĐGH Gioan Phaolô II phong Ngài lên Bậc Hiển Thánh : 19/06/1988 

Đây là vị thánh đã phục vụ Giáo hội Việt Nam 32 năm, trong đó 26 năm với chức vụ Giám Mục. Tòa Giám Mục của Ngài thường là chòi tranh, lẫm lúa, bụi tre, hầm tối, ghe thuyền. Châm ngôn Giám mục của ngài: “Tất cả nhờ Thập giá”.
1. THƠ ẤU VÀ SỨ MẠNG
Stêphanô Théodore Cuénot sinh ngày 08 tháng 02 năm 1802 tại làng Bélieu, Besançon, miền Trung nước Pháp, là con đầu lòng của ông Alexandre Cuénot và bà Éléonore Risse. Thụ phong linh mục ngày 24.09.1825. Cha Cuénot nhận lệnh lên đường phục vụ giáo phận Đàng Trong.
Ngày 03/05/1835 Đức cha Taberd Từ truyền chức Giám mục cho cha Cuénot, làm Giám mục phó với quyền kế vị.

Ngày 31/07/1840 Đức cha Taberd qua đời tại Calcutta, Đức cha Cuénot chính thức làm Đại Diện Tông Tòa giáo phận Đàng Trong. Đức cha Cuénot triệu tập công nghị giáo phận Đàng Trong tại Gò Thị để thống nhất và định hướng việc mục vụ trong giáo phận. Công nghị được diễn ra trong 03 ngày: ngày 05, ngày 06 và ngày 10 tháng 8 năm 1841.
Truyền giáo là ngọn lửa từng ngày đốt cháy tâm can Đức cha Cuénot. Trong 32 năm phục vụ Giáo hội Việt Nam, ngọn lửa ấy luôn cháy trong mọi tình cảnh, thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
2. PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN GIÁO
Phương pháp truyền giáo của Đức Cha Stêphanô Cuénot Thể được tổng hợp với ba nội dung chính: Cầu nguyện, đào tạo nhân sự và phân chia nhỏ giáo phận để các tín hữu được chăm sóc tốt hơn.
2.1. CẦU NGUYỆN
Cầu nguyện là phương pháp truyền giáo trước hết và trên hết, mà thánh Stêphanô đã dùng.
Đức cha Cuénot đã từng khẳng định: “Dầu các Cha tây, huống lựa là tôi, phải ẩn mặt luôn nơi hang nơi hố núi non tất tưởi, khác nào đã chôn lấp rồi, chẳng còn làm đặng việc gì, chỉ đọc kinh lần hột mà thôi, song nội sự ở lại mà chỉ dẫn các Cha bổn quốc, lại thông công chịu khổ vì đạo với con chiên, thì còn có ích hơn bội phần”[1].
2.2. ĐÀO TẠO NHÂN SỰ
Trong 26 năm làm Giám mục hầm trú, Đức cha đã truyền chức được 56 linh mục, trong đó có 15 vị đã chết trong cuộc bách hại 1860-1861. Và đào tạo hơn 400 nữ tu Mến Thánh Giá.
Đối với giáo dân, Đức cha Cuénot chủ trương:  Phương pháp tốt nhất để giáo dân có đức tin vững chắc là đào tạo họ thành tông đồ truyền giáo. Sau khi xác định mục tiêu, Đức cha đã hành động:
2.2.1. Lập đoàn giảng viên giáo lý:  
- Nhóm tại chỗ: Gồm những người cha gia đình có chỗ ở ổn định. Chức năng của họ là giữ gìn trật tự, hòa giải khi có tranh chấp, chủ tọa các buổi họp mặt, rửa tội cho trẻ sơ sinh, dự chứng hôn phối, mời linh mục cho các bệnh nhân nguy tử. 
- Nhóm thứ hai:  Gồm những người có khả năng dạy giáo lý, chuẩn bị cho giáo dân lãnh nhận các bí tích.
- Nhóm nòng cốt: họ là những người có khả năng tranh luận, giải thích giáo lý, có khả năng đào tạo người khác; Họ lưu động đây đó. Chính nhờ họ mà phần lớn đức tin tín hữu được tiến bộ.
2.2.2. Đồng hành đức tin với các tân tòng 
Để tránh quấy rày và ảnh huởng mê tín dị đoan. Sau khi các tân tòng được rửa tội,  Đức cha đã dựng những lều trại ở trong khu người công giáo. Sau đó mới tìm đất mới, rồi đem những gia đình hỗn hợp đạo mới cũ đến lập nghiệp.”[2].
2.2.3. Bác ái & “Trồng chuối lấy con”
Ngoài việc bác ái và cậy dựa vào sức mạnh cầu bàu của các thánh đồng nhi cho việc truyền giáo, Đức cha còn nhắm đến mục tiêu trồng chuối lấy con. Do đó Đức cha tổ chức tiếp nhận những trẻ mồ côi, xin rửa tội cho những em nguy tử.
Trong vòng 09 năm, 20 ngàn em được rửa tội, hơn 18 ngàn đã chết sớm. [3]
2.2.4. Giáo dục đức tin và văn hóa
Ngài yêu cầu mỗi linh mục giữ bên mình ít nhất 3-4 học trò. Phần ngài, ngài đã dành thời giờ để dịch sách ra tiếng Việt và luôn có bên cạnh ngài một linh mục Việt Nam để kiểm tra tiếng Việt.
2.3. PHÂN CHIA GIÁO PHẬN 
Đức cha Cuénot thấy giáo phận quá rộng lớn, việc thông tin liên lạc, phát triển và chăm sóc đoàn chiên không được chu đáo. Ngài đào tạo Linh mục, tấn phong Giám mục và xin chia giáo phận:
Ngày 11 tháng 03 năm 1844, giáo phận Đàng Trong chia thành hai giáo phận: Tây Đàng Trong do Đức cha Dominique Lefèbvre coi sóc; Đông Đàng Trong do Đức cha Cuénot coi sóc.
Ngày 27 tháng 8 năm 1850, giáo phận Đông Đàng Trong chia thành giáo phận Bắc Đàng Trong, do Đức cha François Marie Pellerin coi sóc; Phần còn lại vẫn giữ nguyên tên gọi Đông Đàng Trong do Ngài coi sóc cùng với 12 linh mục Việt Nam, trong số nầy có một người đang ở tù. Trong khi đó ngài đã cung cấp cho hai giáo phận mới thành lập 26 linh mục do ngài đào tạo.
3.TRUYỀN GIÁO TÂY NGUYÊN:
Truyền giáo Tây Nguyên đó là ‘nốt nhạc chủ âm’ trong bài ‘trường ca truyền giáo’ của Đức cha Cuénot.
Sau nhiều lần Đức cha cử nhiều đoàn tìm đường truyền giáo Tây Nguyên nhưng đều thất bại, năm 1848, thầy Sáu Do, trong vai người đầy tớ của một chủ lái buôn, thầy Sáu đã biết được một ít thổ âm, phong tục, tập quán, địa hình địa thế một số bộ lạc. Thầy trở thành người tiên phong mở đường dẫn lối các nhà truyền giáo đem Tin Mừng cứu rỗi cho các anh em Dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên.

4. HOÀN THÀNH CUỘC ĐỜI:
Từ năm 1855 đến năm 1861, Vua Tự Đức ban hành các sắc dụ cấm đạo khá gắt gao.
Gánh nặng mục vụ của một mục tử trong lãnh thổ rộng lớn, những đối phó không ngơi nghỉ trong hoàn cảnh cấm đạo gay gắt, những thiếu thốn vật chất, tất cả điều đó đã làm cho ngài kiệt sức. Không thể ẩn trú lâu dài tại một địa điểm. Mối đe doạ bị bắt ngày càng lớn, ngày 20/10/1861, Đức cha, thầy bốn Tuyên và chú Nghiêm tạm ẩn tại nhà bà Maria Mađalêna Huỳnh Thị Lưu.
Vừa xong thánh lễ sáng ngày 28/10/1861, đồ lễ chưa kịp dọn, quân lính đến bao vây. Ngay trong đêm hôm ấy, Đức cha Cuénot bị bắt.
Tại nhà giam Bình Định, Đức cha bị tả lỵ, ngày càng đuối sức. Đức cha Cuénot trút hơi thở cuối cùng trong đêm 14/11/1861 tại nhà giam Bình Định. Ngài chết trong đêm khuya không ai hay biết, cô đơn giữa lao tù. “Tất cả nhờ thập giá” cho tới cùng.
Để thực hiện bản án của triều đình, sau ba tháng 17 ngày được chôn cất, xác Đức cha Cuénot được đào lên rồi quăng xuống sông. Cho đến  ngày nay di cốt của Ngài không được tìm thấy.
“Tất cả nhờ Thập Giá”, dâng hiến toàn thân, quên mình hoàn toàn.
Ngày 02/05/1909, được tôn phong chân Phước Tử Đạo.
Ngày 19/06/1988, được tôn phong Hiển Thánh Tử Đạo.

_____________________

[1] R.P. Tardieu, Hạnh Đức Cha Thể, Nhà in Làng Sông 1907, tr. 60.
[2] Jean Thiébaud, sđd, trang 60.
[3] R.P. Tardieu, sđd, trang 45-46.

Nguồn: https://gpquinhon.org

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét