Nguồn gốc của Dê
Theo tài liệu trong Bildschromik der Welt
Geschichte của nhà xuất bản Coventgarden dẫn chứng loài Dê Bezoarziegen có cách
dây 50 000 năm. Thời đồ đá loài người săn bắn dê làm thực phẩm. Dê
sống trên đồi núi hoang giả tại : Á Châu, Âu Châu và Phi Châu.
Ðược người ta đêm về
nuôi thuần hóa, sử dụng thành gia súc, sáu con vật nuôi thông dụng : dê, gà, chó, lợn, ngựa,
trâu.
Dê là một trong ba thứ lễ
vật đặc biệt để cầu cúng, tế dâng thần thánh như heo và bò. Dê có tên
khoa học Capra sp., thuộc loại động vật có vú (Mammalia), bộ móng chân
(Artiodactyla), loại nhai lại (Ruminantia) có sừng rổng (Bovidae). Dê có 8 răng cửa hàm
dưới và răng hàm, không có răng cưả hàm
trên. Dê nuôi gốc giống Capra Prisca. Các loại Steinbock/sơn dương Gaemse/ Linh dương. Schneeziege sinh sống ở
Rocky Mountains trên cao 4000m ở Hoa Kỳ; Iberissche Steinbocke vùng
Bán đảo Tây Ban Nha; schraubenziege dê rùng ở Pakistan và Himalaya...
Tập tính
Hiện nay người ta cho rằng
dê có nguồn gốc từ các loài dê rừng: nhóm dê châu Âu, châu Á và dê châu
Phi. Dê rừng sừng dài cong cả mét, so với dê nuôi sừng nhỏ và yếu hơn, hoặc
không có sừng, tai dài hay ngắn hơn tùy giống. Riêng màu sắc và lông dài
ngắn thay đổi tùy theo từng vùng, có loại lông dài mịn như lông cừu. Loại
dê Angoraziege lông dài biến chế len ở Thổ Nhỉ Kỳ (Turkey). Thủ đô Ankara tên
cổ Angora. Nên có tên len Angora (phát xuất từ Angora gốc ở Thổ).
Vùng Kaschmir, độc lập năm 1947, có dê Kaschmirziege sống biên giới India và
Parkistan có lông tốt, chế biến len vải (cashmere) phẩm chất cao
Dê ăn cỏ cây, các chồi non
đủ loại, không kén ăn nhưng thích thay đổi nón ăn, lá dâu có lẽ hấp dẫn với dê
hơn. Ngày xưa các Cung phi hay dùng lá dâu, lá so đũa để mời gọi xe
dê của Vua vào phòng.
Dê trong Sở thú thích thức
ăn bán trong máy tự động và cả kẹo bánh. Các loại dê đều thích leo
trèo. Có thể nhảy từ mỏm đá nầy sang chổ khác cao xa hơn. Dê có thể
nhịn nước lâu ngày trong sa mạc, có sức chịu đựng mưa nắng, tuyết phủ...
Dê đực có sức mạnh về sinh
lý, thừa sức sống phục vụ cho một đàn dê cái, 100 dê cái chỉ cần 4 dê
đực. Mỗi ngày một con đực làm "nhiệm vụ" trên 5 lần, nhưng vẫn
khoẻ chạy nhảy! Con dê đực có mùi hôi để quyến rũ phái tính? Có
người cho rằng mùi hôi phát ra từ dưới sừng, và có thể từ
mồ hôi ?
Dê trong sinh hoạt xã hội
Trong Thập Nhị Ðịa Chi 12
con Giáp, dê đứng hàng thứ 8. Tính theo tháng (tháng giêng tính từ Dần), tháng
Sáu thuộc tháng Mùi và trong ngày giờ Mùi từ 13 –15 giờ . Con người thuần dưỡng
dê và nó trở thành con vật nuôi trong nhà, cung cấp thịt sửa vv... Trong đời sống, chuyện về
dê nhiều ý nghiã khá đa dạng, sinh động, hấp dẫn và đầy ngụ ý. Từ xưa người ta hay dùng dê
để tế lễ .
Theo Ðại Nam thực lục Chính
Biên, Triều đại vua Minh Mạng (1791-1840), mùa Ðông năm Minh Mạng (1836)
thứ 17, nhà vua sai mua 220 dê đực và 100 dê cái, chọn
20 con dê đực giao Tể sinh làm lễ vật tế lễ Nam Giao, đặt tại đàn Thượng có
thịt dê ướp dương hải. Minh Mạng (1840) thứ 21, cho dân chúng miền Trung
các dê giống để nuôi, ai nuôi nhiều thì có thưởng.vv.
Thần thoại Hy lạp, La mã
ghi lại Zeus- Jupiter chúa tể các vị thần, lúc sinh ra bú sửa dê pha với mật
ong. Khi tế thần người ta phải dâng dê, bò thui đốt. Tế thần Hecmet cũng
phải có mật ong, bánh ngọt, heo và dê con.
Theo sách Tấn thư, Tấn Vũ
Đế (thời Chiến quốc) sống xa hoa, có rất nhiều cung tần mỹ nữ. Đêm đêm
nhà vua thường dùng xe có dê kéo trong hậu cung, cho dê kéo đi đâu thì
đi. Các phi tần biết vậy, thường lấy lá dâu rắc trước cửa phòng
mình. Dê thích ăn lá dâu sẽ ngừng xe lại và người cung phi ấy sẽ may mắn
được gặp gỡ với “mặt rồng” và đựơc Tấn Vũ Đế ân sủng.
Chúng ta thường nghe nói dê
là dương. Ðàn ông nhiều vợ hoặc hay tán tỉnh thì bị gọi là có "thói
dê" ? hay "dê cụ". Ai có chòm râu cằm rậm hơi cong thì gọi
là "râu dê" Nghệ sĩ Thanh Việt hài hước trên
sân khấu có giọng "cười dê" hay t ánh "be he" nói chuyện
không thật, trên trời dưới biển. Trong y học có t ừ "Satyriasis" chỉ
thể lực về sinh lý. Nếu xét con dê có đời sống hiền lành như các gia súc
khác, nhưng cái gì xấu thì bị gán ghép cho dê thật là tội nghiệp.
"Máu dê" thể hiện khả năng sinh dục
mạnh mẽ; các cô nói anh ấy "dê quá". Người Mỹ cũng nói: Let go you randy old goat
! To get someboy’s goat.
"Bán bò tậu ruộng
mua dê về cày " Mỉa mai sinh hoạt hằng ngày, không
biết tính.
"Cà kê dê ngỗng" ám chỉ người ăn
không ngồi rồi, kể lể tản mạn, dài dòng, huyên thuyên những chuyện lặt vặt, vớ
vẩn.
"Giàu nuôi
chó, khó nuôi dê, không nghề nuôi ngỗng" Chứng tỏ nuôi dê không tốn
kém, không cần chuồng trại, các vùng núi chỉ cần thả dê sống trên núi đồi không
tốn thực phẩm
"Máu bò cũng
như tiết dê" Dù hai thứ tiết khác nhau người ta ăn tiết canh dê không
ai ăn tiết canh bò. Câu trên ám chỉ con người không rõ ràng trong các vần
đề.
"Treo đầu dê bán
thịt chó“ Chỉ người nói một nơi,
làm một nẻo, ba xạo, nói và làm không ăn khớp nhau.
"Dương chất hổ bì " Chất là chất dê, da
là da cọp. Dùng bề ngoài loè loẹt, giả dối để lừa bịp che đậy thực chất xấu xa
bên trong.
"Bịt mắt bắt dê" Trò chơi dân gian trong đó
có một người bịt mắt, đuổi theo một con dê, hoặc đuổi bắt một hay nhiều người
giả làm dê kêu be be. Nghĩa bóng là làm một việc khó có thể đạt được kết qủa.
Dê trong ca dao, văn học linh động, hấp dẫn
mà thâm thúy.
Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi
Em đây luống những ngậm
ngùi tuổi Thân !!
Trẻ em nhà quê khi chơi trò dung dăng dung dẻ
thường thuộc lòng bài đồng dao vui nhộn:
Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Cho Cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp
Ngồi xệp xuống đây
Nữ Sĩ Hồ Xuân Hương bà chúa
thơ Nôm, sinh cuối đời hậu Lê không rõ năm sinh. Sau khi Tổng Cóc từ
trần, nữ sĩ lập quán bán nước để mưu sinh và giao thiệp với các bạn văn nhân
thi sĩ . Một hôm bọn trẻ dẫn nhau đến yêu cầu Xuân Hương cho tựa bài thơ, bà
đọc bốn câu thơ :
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn
ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngưá nọc châm hoa
rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu
thưa.
Trong điển cố văn học đã có
từ “ dương xa” là xe dê các đời vua chúa dùng đi lại trong cung phi mỹ nữ,
trong việc đưa đón ái ân. Trong tập Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều
(1741-1789) cũng có câu:
Phải duyên hương lửa cùng
nhau
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào
Nguyễn Ðình chiểu
(1822-1888) nhà thơ yêu nước chống thực dân Tây. Trong bài Văn Tế Nghiã sĩ Cần
Giuộc, đã gởi phần tâm sự và lời chê trách người cộng tác với thực dân, làm tay
sai dày xéo dân tộc khổ đau vì nô lệ:
Hai vầng nhật nguyệt chói
lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
M ùi tinh chiên vấy đã ba
năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Theo sử sách ghi chép, dưới
thời nữ Hoàng Ðế Cixi (1835-1908) gọi là Từ Hi Thái Hậu/Tz’u-hsi, ngay từ rằm
tháng 2 Kỷ Hợi (1873), mỗi tỉnh của Trung Hoa tiến cử 10 đầu bếp giỏi nhất của
mình về kinh thành soạn thảo thực đơn. Sau gần hai tháng chuẩn bị, các
đầu bếp thống nhất một thực đơn gồm 140 món. Trong đó có 7 món đặc biệt "
Sơn dương trùng" là một trong bảy món ăn đặc sản độc đáo...giới bình dân
thì làm lẩu hay Carry dê..
Theo Ðông Y, sửa dê có vị
ngọt tính âm tác dụng bổ hư, bồi dưỡng cơ thể. Người ta vắt sửa dê vào
lúc trời sáng, khi dê con chưa ngủ dậy, bế dê con sang chỗ khác vắt sửa dê mẹ
Người nước Lỗ khi xưa phải
mổ thịt dê đực làm lễ "Cốc sóc". Về sau lễ ấy được bỏ đi nhưng
người ta vẫn theo lệ mà nộp dê. Tử Cống (học trò Khổng Tử tên là Ðoan Mộc
Tứ nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi) muốn bỏ hẳn lệ ấy đi, nhưng Khổng Tử (Kong Qui
sinh năm 551-479 trước CN) bảo: "Ngươi tiếc con dê còn ta thì tiếc cái
lễ". Ý muốn nói, triều vua bây giờ đã suy, bỏ mất lễ "Cốc
sóc" nhưng vẫn giữ tục nộp dê thì người ta vẫn nhớ đến lễ ấy và lễ cốc sóc
không mất hẳn. Câu chuyện này chứng tỏ dê có một vai trò quan trọng như
thế nào trong văn hoá Trung Quốc.
Thi sĩ Bùi Giáng
(1926-1998) cảm nỗi lòng Tô Vũ, và chính ông cũng một thời chán đời về mua dê
và chăn dê ở quê nhà, núi đồi Quế Sơn tỉnh Quảng Nam, trong khoảng
từ (1945 đến 1952)
Ðồi tăm tắp chạy về ôm chân
núi
San sát đồi phủ phục quần
núi xanh
Chiều xuống rồi tơ lòng rộn
ràng rối
Trời núi đồi ngây ngất nhảy
dê nhanh
Thôi từ nay tha hồ em mặc
sức
Nhảy múa tung sườn núi vút
dòng khe
Thôi từ nay tha hồ em mặc
sức
Vang vang lên đồi núi giọng
be be....
Ngẩng đầu lên ! dê ơi anh
thong thả
Ðeo vòng vào em nghển cổ
cong xinh
Ngẩng đầu lên ! đây lòng
anh vàng đá
Gửi gắm vào vòng mây nhuộm
tơ duyên...
Ông Tô Vũ, sứ giả nhà Hán
thời (Hán Vũ Đế vua thứ 6 nhà Hán 140-87 tr.CN). Tô Vũ đi sứ sang Hung Nô.
Triều đình Hung Nô có lời dụ hàng, Nhưng Tô Vũ giữ thể diện nhà Hán, giận dữ
quát mắng, chúa Hung Nô là Thuyền Vũ sai quân áp tải ông đến giam vào hang sâu,
với ý giết chết sứ thần nhà Hán. nhưng Tô Vũ không chết trong hang. Thuyền Vũ
liền truyền lệnh đầy ông lên phương bắc, vắng như sa mạc, tuyết phủ quanh năm.
Ông phải chăn một đàn dê đực, với sắc chỉ của chúa Hung Nô: " Bao giờ
trong đàn dê, dê đực đẻ con, sứ thần Tô Vũ được trở về đất
Hán".
Hán Vũ Đế và cung đình nhà
Hán biết tin sứ thần Tô Vũ bị hại, đã nêu tấm gương
trung nghĩa với đất nước và bị giam trong hang cho đến
chết, nên vô cùng thương xót, luôn nêu cao công trạng và gương trung nghĩa cho
đời. (Thời gian trôi qua Hán và Hung Nô giảng hoà,Tô Vũ được tự do về
nước).
Những
dược thảo mang tên Dê/Dương
*Cà Dái dê còn gọi cà tím tên khoa học /
Solanum melongena họ cà Solanaceae chứa chất violanin.
*Dương Ðề / Rumex wallichii họ rau Polygonaceae. Rễ và
lá chứa anthraglucosid.
*Dâm Dương Hoắc/ Herba epimedii, thuộc họ
Hoàng liên gai Berberidaceae.
*Cây Sừng Dê/Semen
Strophanthididivaricati còn gọi là dương giác nữu,
đương giác ảo chứa các chất Glucosid.
*Dương Ðề Thảo/ Emilia Sonchifolra họ cúc
Compositae
*Dương San Hô/ Euphorbia tithymaloides họ
thầu dầu Euphorbiaceae
*Dương Xuân Sa/ Amomun Villosum họ gừng
Gingberaceae chứa saponin.
*Dương Ðào/ Averrhoacarambola.
Các năm Mùi trong
lịch sử
Quý Mùi (503): Ngày 12/9/503 là ngày sinh
của Lý Bôn ( ? - 548), tức Lý Bí, quê ở Long Hưng. Tháng 1- 542, Lý Bí kêu gọi
dân chúng khởi nghĩa chồng công quân Lương. Thứ sử Tiên Tư khiếp sợ bỏ chạy về
nước. Tháng 2-544, Lý Bí xưng Lý Nam Đế. Niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước
là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên. Triều Tiền Lý khới nghiệp từ đấy.
Tân Mùi (791): Năm 766, Phùng Hưng
(761-802) quê Sơn Tây cùng anh em là Phùng Hải và Phùng Dĩnh phất cờ khởi nghĩa
chống lại nhà Đường. Cuộc chiến đấu kéo dài 20 năm (766-789). Đến năm Tân Mùi
(791), Phùng Hưng cùng các tướng chiếm được thành Tống Bình (Hà Tây), được tôn
hiệu là Bố Cái Đại Vương.
Kỷ Mùi (1019): Năm sinh của Lý Thường Kiệt
(1019-1105). Năm 1061, ông được cử vào trấn giữ vùng núi Thanh Nghệ hiểm trở.
Năm 1077, quân Tống đem 10 vạn quân, 1 vạn ngựa chiến, cùng 20 vạn dân phu sang
xâm lược nước ta. Quân giặc bị quân dân ta đánh chặn ngay từ cửa Ải Lạng Sơn.
Ngày 18/1/1077, quân Tống tiến đến bờ Bắc sông Cầu và bị chặn lại hơn 2 tháng.
Đến đúng lúc giặc Tống bị dồn vào tính thế khốn quẫn tại sông Như Nguyệt (Bắc
Ninh), Lý Thường Kiệt ra lệnh quân dân Ðại việt tấn công, giặc Tống thua rút
quân về nước.
Đinh Mùi (1427): quân ta chém tướng
Liễu Thăng ở núi Mã Yên và hơn 1 vạn quân giặc. Tướng Vương Thông hết hy vọng
vào viện binh đã xin đầu hàng. Ngày 10/12/1927, Lê Lợi(1385-1433) và Nguyễn
Trãi (1380-1442) cho Vương Thông đến "Hội thề Đồng Quan" chúng xin
hứa không bao giờ xâm lược Đại Việt nữa.
Năm Ất Mùi (1595): Sau khi đánh bại quân
nhà Mạc, Trịnh Tùng (?- 1623) khôi phục cố đô Thăng Long vào năm 1592. Năm Ất
Mùi (1595), Trịnh Tùng bắt đầu tổ chức bộ mày cai trị theo quy mô của bậc đế
Vương. Từ đấy bắt đầu thời kỳ vua Lê – chúa Trịnh.
Kỷ Mùi (1859): Pháp đánh chiếm Gia Định,
Trương Định (1820-1864) tổ chức khởi nghĩa chống giặc ở Gò Công, Tân An, đựơc
triều đình Huế giao chức lãnh binh.
Đinh Mùi (1907): Thành lập trường Đông Kinh
Nghĩa Thục tại phố Hàng Đào, do việc vận động của Phan Chu Trinh(1872-1926) với
các nhà Nho tiến bộ. Ông Lương Văn Can(1854-1927) làm Hiệu trưởng, giám học là
ông Nguyễn Quyền và một số nhà trí thức; học giả nổi tiếng
Ất Mùi (1955): Theo Hiệp định Geneve ký
ngày 20/7/1954, quy định ngày 24/4/1955, quân đội Pháp rút khỏi Quảng Ninh,
ngày 13/5/1955 rút khỏi Hải Phòng cho đến ngày 16/5/1955.. Và các năm Ðinh Mùi(1967);
Tân Mùi (1991) và Quý Mùi (2003)...
Lịch sử đổi thay qua các
năm Mùi, con người tiến bộ theo văn minh khoa học. Có các sự tích, giai
thoại và văn học viết về dê, tùy theo nhận xét của mỗi người. Nhưng dê
vẫn một đời nguyên thủy của nó. Dù mùa xuân đến rồi qua nhanh !!
Nguyễn Quý Ðại sưu tầm
Tài Liệu Tham Khảo
Wildes Afrika ( Bayerischer Rundfunk)
Tiere ( Dorling Kinderley)
Universal Lexikon (Bassermann)
Welt Geschichte Convertgarten
Các tài liệu Việt ngữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét