Đặng Tiến
Miền thôn dã quê tôi thường
nghe câu hát ru em âu yếm và lạ lùng:
Ru em buồn ngủ buồn nghê
Con tằm chín đỏ, con dê chín mùi (muồi)
Con tằm chín đỏ để lại mà nuôi,
Con dê chín mùi làm thịt em ăn.
Con tằm chín đỏ, con dê chín mùi (muồi)
Con tằm chín đỏ để lại mà nuôi,
Con dê chín mùi làm thịt em ăn.
Câu hát thân thuộc, ngọt ngào
lẫn chút huyền bí đong đưa giữa giấc trưa quạnh vắng. Y' nghĩa của nó chập chờn
trong ánh nắng, gắn bó với bóng tre, cây rơm, lá xoài, lá mít. Câu hát dỗ dành
giấc ngủ trẻ thơ, phất phơ một ít mộng mị người lớn, là thành phần một thực thể
thôn trang. Nó hồi quang âm vang của cuộc sống thực tế và tâm linh. Tách rời
khỏi môi trường "một buổi trưa không biết tự thời nào", "quạnh vắng bên trong
một tiếng hò"(1) thì câu hát vô nghĩa, vô lý – trừ phi ta cố công phân
tích từng hình ảnh thành biểu tượng, tách lìa ra khỏi trí tưởng đơn giản của
nông thôn.
Giáo sư Bửu Cầm, tại giảng
đường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, năm 1962, có đưa ra giả thuyết : đây là câu hát
vọng lên từ thuyền đò :
Ru con
buồn ngủ buồn nghê
Con này mới théc (ngủ) con tê dậy rồi
Con này mới théc (ngủ) con tê dậy rồi
Lời ru chập chờn loang trên
sông nước và ngọn gió vô tình đã thổi lệch đường viền của những âm hao, tạo ra
những con dê chín mùi.
***
Năm Mùi, còn gọi là năm Vị
: Mùi, Vị (năm) là hai từ đồng nghĩa, nhưng có thể xem như
một từ với hai cách phát âm khác nhau : vị là cách
đọc hán việt, mùi là cách đọc việt xưa (hay cổ Hán Việt có từ thời
Đường). Còn mùi, vị hiểu theo nghĩa cảm xúc bằng mũi và lưỡi là hai từ khác
nghĩa, nhưng cùng một gốc từ nguyên. Ngày nay, trong tiếng Hán Việt, chữ mùi chỉ có nghĩa niên lịch, ngày giờ, còn chữ vị thì nhiều nghĩa, thông dụng và kết hợp rộng rãi hơn. Ở Trung Quốc,
tiếng Quảng Đông phát âm giống nhau : Quý Mùi (mei6) mùi lai (vị lai), nơi khác
phát âm là Vị (wei4).
Dê là một biểu tượng phong
phú, xuất hiện lâu đời từ thời tiền sử loài người, trong đời sống vật chất và
tâm linh. Sách Lĩnh
Nam Chích Quáiở chương
đầu tiên, về họ Hồng Bàng, đã kể lại rằng từ thời xa xưa ấy, người Việt trong
hôn nhân, đã biết "
giết trâu dê làm đồ lễ ". Nghĩa
là con dê đã được nuôi làm gia súc và sử dụng vào việc tế lễ, nhưng không lấy
gì làm bằng. Sử sách ghi lại rằng, thời Hán, 200 năm trước công nguyên, Lữ Hậu
đã cấm xuất khẩu ngựa cái và dê cái sang Nam Việt để giới hạn việc chăn nuôi ở
phần đất do Triệu Đà chiếm cứ.
Vào giữa thế kỷ 16, trong
bài Đào Nguyên Hành, Phùng Khắc Khoan (1528-1613) tục gọi Trạng Bùng đã tả cảnh nông
thôn Việt Nam :
Trâu
bò, gà lợn, dê ngan,
Đầy lũ đầy đàn, rong thả khắp nơi.
Đầy lũ đầy đàn, rong thả khắp nơi.
***
Từ Đông sang Tây, biểu
tượng dê phong phú và phức tạp. Từ dê đực sang dê cái hình tượng đã đổi giá. Dê
cái là hình ảnh đáng kính yêu trong các huyền thoại phương Tây, là nghĩa mẫu
của thần Zeus, là bóng dáng con người gian nan vượt núi trèo non đeo đuổi cuộc
sống và lý tưởng ; sừng dê cái biểu tượng sức sản sinh phồn thịnh.
Ngược lại, dê đực tượng
trưng cho mãnh lực và nhu cầu tính dục. Một chàng dê có thể đơn thân độc cước
phục vụ cho cả đàn dê cái mà không mấy cực nhọc. Trong các xã hội xưa, đạo đức
và tôn giáo tìm cách kìm hãm bản năng tính dục, thì sinh lực của chàng dê bị
bêu riếu, phê phán, bị sử dụng như một thứ " dê tế thần, dê sứ giả "
(bouc émissaire, scape coat) để ổn định xã hội. Trong khi đó, thịt dê vẫn được
trân trọng " rượu nồng dê béo " vì được xem như có chất bổ dương. Chê
cười dê, nhưng mong khỏe như dê.
Người đàn ông hiếu dục, Tây
phương gọi là Satyre, Việt Nam gọi là dê, dê xồm, dê cụ, dê được dùng làm động
từ " dê gái ". Trong trò chơi đánh đề, mỗi con số đề có vẽ hình
một súc vật : số 35 kèm hình con dê : do đó " băm lăm " có nghĩa là
hiếu sắc. Và hình tượng dê, trong nghĩa tiêu cực, chỉ áp dụng cho đàn ông. Đàn
bà thì gọi là ngựa. Nghiệm cho cùng hai con vật đều bị hàm oan. Con người cũng
là hàm oan của quyền lực : các đấng thần linh, mẫu hậu, đế vương thì không ai
dám nói rằng dê rằng ngựa.
Trong huyền thoại Hy Lạp
con dê đực còn là hình tượng của thần Pan, thủy tổ của mục đồng, ngày xưa là kẻ
chăn dê ; Pan sống trên non cao, thổi sáo làm bằng ống sậy để tưởng nhớ giọng
nói của người yêu đã lẫn hồn vào lau lách. Dê còn làm hình tượng cho Dionyos,
thần chủ của rượu nho, mặt nạ và sân khấu, do đó bi kịch, một thể loại văn học
lớn lao của nhân loại, tiếng Hy Lạp là tragôidia bắt nguồn
từ tragos, nghĩa là con dê đực. Vậy bi kịch là khúc dương ca, nói cho văn
chương. Gọi là tiếng be he thì là vô lễ, nhưng không phải là vô lẽ.
Trong tín ngưỡng dân gian,
con dê có mặt trong bảng tử vi phương Đông lẫn phương Tây. Trong lịch Trung
Quốc, dê tượng trưng cho năm Mùi ; trong lịch phương Tây, Dê tên là Ngư Dương
sừng dê đuôi cá : capricorne là một trong 12 chòm sao trên hoàng đạo, ứng vào
ngày đông chí ở Bắc bán Cầu : ngày bắt đầu dài. Trong niềm tin dân gian, đây là
điềm lành.
***
Năm bộ
da dê
Bá lý Hề, năm bộ da dê
Từ chàng ra đi
Mổ con gà mái
Nồi cơm gạo đỏ
Chừ thương thì thương
Ngày nay giàu sang
Chàng quên chăng chàng
Bá lý Hề, năm bộ da dê
Từ chàng ra đi
Mổ con gà mái
Nồi cơm gạo đỏ
Chừ thương thì thương
Ngày nay giàu sang
Chàng quên chăng chàng
Đây là một câu hát trong bộ
truyện Đông Chu Liệt Quốc. Bá Lý Hề là nho sĩ nghèo, bốn mươi tuổi phải bỏ nhà
ra đi tìm công danh, có lúc phải ăn mày, cuối cùng đi giữ trâu và chăn ngựa cho
vua Sở. Tần Mục Công biết tài, muốn rước về, nhưng sợ vua Sở phỗng tay trên,
chỉ chuộc bằng năm bộ da dê. Bá Lý Hề về Tần, làm tể tướng, tuổi đã bảy mươi.
Người vợ già lưu lạc và nghèo khó, tìm đến xin làm gia nhân, rồi thừa dịp hát bài
hát nói trên, kể lại chuyện tiễn chồng ba mươi năm trước và Bá Lý Hề nghe lời
hát đã nhận ra người vợ tao khang. Câu chuyện lý thú và cảm động, và chứng tỏ
là trước công nguyên, việc nuôi dê đã phổ biến, da dê đã là hàng hóa thông
dụng. Dĩ nhiên Đông Chu Liệt Quốc là tiểu thuyết viết sau này, nhưng cũng dựa
vào tư liệu lịch sử.
Cùng thời chiến quốc
(453-221 trước công nguyên) sách Trang Tử đã có kể chuyệân người bán thịt dê
nước Sở, có công phò vua, nhưng từ chối công khanh. Sách Liệt Tử, cùng thời, kể
chuyện một con dê mất, nhiều người đi tìm, nhưng không kiếm ra vì đường đời lắm
ngã rẽ.
Trong điển cố phổ biến, có
chuyện vua Tấn Vũ Đế đi xe dê vào hậu cung và các cung nữ rắc lá dâu trộn muối
để cho dê dừng lại. Nên Nguyễn gia Thiều (1741-1791) trong Cung Oán Ngâm Khúc
đã có câu :
Phải
duyên hương lửa cùng nhau
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào
và nhiều lần dùng chữ hán dương xa.
Nguyễn Bỉnh Khiêm
(1491-1585) không cần dùng đến điển cổ ngoại nhập, mà chỉ xử dụng thành ngữ treo đầu dê bán thịt chó :
Lận thế
treo dê mang bán chó
Lập danh cỡi hạc lại đeo tiền
Lập danh cỡi hạc lại đeo tiền
(Lận nghĩa là lừa dối, trong từ
gian lận, biển lận) câu thơ đồng thời chứng tỏ thành ngữ nói trên phải có từ
lâu, và con dê là món hàng phổ cập.
Tuy nhiên trong dân gian,
nổi tiếng nhất là chuyện Tô Vũ chăn dê. Thời Hán Vũ Đế (141-87), Tô Vũ đi sứ
Hung Nô, bị vua Thuyền Vu bắt giữ, đày lên miền Bắc Hải chăn dê, hẹn khi dê đực
đẻ con mới được phóng thích, và loan tin Tô Vũ đã chết. Mười chín năm sau, Hồ
Hán giảng hòa, sứ nhà Hán bịa đặt chuyện vua Hán nhận được thư Tô Vũ buộc vào
chân nhạn, Thuyền Vu hoảng sợ mới trả Tô Vũ. Trong cõi lưu đày, Tô Vũ đã kết
bạn với một con vượn cái. Chuyện Tô Vũ, với nội dung cảm động và nhiều tình
tiết éo le đã là một đề tài nghệ thuật, cho nhiều tranh tượng, và điệu hát dân
gian.
***
Lê Thánh Tông (1442-1497)
đã có hai bài Vịnh Tô Vũ , trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập :
Biển
bắc xuân chầy dê chẳng nghén
Trời nam thu thẳm nhạn không thông
Trời nam thu thẳm nhạn không thông
Phải chăng đây là lần đầu,
con dê, và tên dê, xuất hiện trong văn học quốc âm, nếu quả thật là thơ Hồng
Đức. Vì bài này lại thấy trong truyện nôm Tô Công phụng sứ, khuyết danh, gồm có
24 bài đường luật, tương truyền có từ thời Mạc, thế kỷ 16, nhân chuyện Lê quang
Bí đi sứ Trung Quốc, bị nhà Minh giữ lại 18 năm ở Nam Ninh, giống Tô Vũ ;
truyện có những câu hay :
Hơi dê hãy ngấu manh tơi lá
Tuyết nhạn còn in cái tóc lông
Tuyết nhạn còn in cái tóc lông
Y' nhắc hoàn cảnh người chăn
dê sống chung với dê, quần áo đượm mùi dê, lông tóc trắng màu lông nhạn nơi Bắc
Hải.
Trong Hồng Đức Quốc Âm thi
tập, còn có hình ảnh con dê độc lập, đi thẳng từ thiên nhiên vào thi ca, mà
không qua điển cố văn học, trong bài Tương Phùng :
Ông già
buông nọc châm hoa rữa
Dê yếu văng sừng húc dậu thưa
Dê yếu văng sừng húc dậu thưa
Nếu quả thực là tác phẩm Lê
Thánh Tông, hay một người nào khác trong nhóm Tao Đàn, thì câu thơ Việt Nam, từ
thế kỷ 15 đã sắc cạnh, súc tích và hiện đại. Nó sẽ tái sinh trong hai câu cuối
một bài thơ được gán cho Hồ xuân Hương, đầu thế kỷ 19, Mắng học trò dốt :
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa
Hai câu trước chỉ được phần
đanh đá. Hai câu sau giàu hình tượng sắc sảo, nhưng không do Hồ xuân Hương sáng
tạo ; bà có công điều chỉnh một số chữ nôm tinh vi và tinh quái. Đặc biệt câu
cuối hàm súc, đa hiệu. Tách rời khỏi văn cảnh và câu chuyện mắng mỏ người khác, dê cỏn buồn sừng húc dậu
thưa có thể mang ý nghĩa khác, đa
mang chút âm hao u hoài, xa vắng.
***
Ta có từ "lục
súc" để chỉ sáu con vật được chăn nuôi trong phạm vi gia đình nông dân :
trâu, ngựa, dê, gà, heo, chó. Nhưng đây là thành ngữ Trung Quốc, có trong sách
vở từ thời đầu công nguyên.
Truyện Nôm Lục Súc Tranh Công của ta cũng dựa theo sử sách Tàu, chứ thật ra
việc nuôi dê không mấy phổ biến. Trong truyện ngụ ngôn nói trên ra đời tại Huế,
vào thời nhà Nguyễn, con dê chỉ được sử dụng trong việc tế lễ :
Dê vốn
thật thuộc loài tế lễ
... Để hòng khi tế thánh tế thần,
... Hễ có việc lấy dê làm trước,
Dê dâng vào người mới lạy sau.
... Để hòng khi tế thánh tế thần,
... Hễ có việc lấy dê làm trước,
Dê dâng vào người mới lạy sau.
Nhưng lịch sử, tình cờ, đã
tạo hai hình ảnh dê thật đẹp trong thơ Bùi Giáng và Lê Đạt.
Cuộc kháng chiến chống Pháp
đã đưa Bùi Giáng đi "chăn
dê một đoạn đời 15 năm ở núi đồi Nam Ngãi Bình Phú", như ông kể lại trong bài thơ Nỗi lòng Tô Vũ (Mưa Nguồn – 1962). Một bài thơ hay, thi vị và
đằm thắm. Đàn dê trong thơ Bùi Giáng tự do nhảy múa, tha hồ be he, bé hé, bế hế, bê hê, tung tăng những bộ lông rực rỡ, trong chiếc
vòng nhiều màu sắc do nhà thơ thoăn
thoắt bện :
Này em
Đen chiếc vòng vàng tươi lắm
Này em Vàng chiếc trắng há mờ đâu
Này em Trắng chiếc hồng càng lóng lánh
Này đây em Hoa Cà hỡi ! chiếc nâu.
Này em Vàng chiếc trắng há mờ đâu
Này em Trắng chiếc hồng càng lóng lánh
Này đây em Hoa Cà hỡi ! chiếc nâu.
Và nhà thơ bỏ công ghi chú : Dê Hoa Cà có sắc lông lổ đổ
tía hồng xem như hoa cà vậy. Đẹp vô cùng. Nhất là buổi chiều, sắc lông óng ả
dưới nắng vàng – xa xa hình bóng dê rực rỡ bổi bật trên sườn núi xanh lơ. Dê
Hoa Cà còn gọi là Dê Sao, vì lông lổ đổ sáng như sao...
... Cái lần đầu, thuở 20
tuổi trao cái vòng ngọc cho vị hôn thê mà không cảm động bằng lần đeo vòng cho
dê vậy (tr.151).
Ngẩng đầu lên nhìn anh mờ mắt lệ
Từ lần đầu vòng ngọc tuổi hai mươi
Trao người em trăm năm lời ước thệ
Đây lần đầu cảm động nhất mà thôi.
Từ lần đầu vòng ngọc tuổi hai mươi
Trao người em trăm năm lời ước thệ
Đây lần đầu cảm động nhất mà thôi.
Vòng em xong, vòng anh
dành riêng chiếc
Dành riêng mình – dê hỡi hiểu vì sao ?
Vì lòng anh luống ân thầm tha thiết
Gán đời mình trọn kiếp với dê Sao.
Dành riêng mình – dê hỡi hiểu vì sao ?
Vì lòng anh luống ân thầm tha thiết
Gán đời mình trọn kiếp với dê Sao.
Nhìn anh đây các em Vàng
Đen Trắng
Tía Hoa Cà lổ đổ thấu lòng chưa ?
Từ từ đưa chiếc vòng lên thủng thẳng
Anh từ từ đưa xuống cổ đong đưa
Tía Hoa Cà lổ đổ thấu lòng chưa ?
Từ từ đưa chiếc vòng lên thủng thẳng
Anh từ từ đưa xuống cổ đong đưa
Và giờ đây một lời thề đã
thốt
Nghìn thu sau đồi núi chứng cho ta
Cao lời ca bê hê em cùng thốt
Hòa cùng lời anh nghẹn nỗi thiết tha.
Nghìn thu sau đồi núi chứng cho ta
Cao lời ca bê hê em cùng thốt
Hòa cùng lời anh nghẹn nỗi thiết tha.
Về vẻ đẹp của một loài súc
vật, và tình người với nó, tưởng trong văn học không mấy khi có những trang đằm
thắm và tráng lệ như trong thơ Bùi Giáng.
Mươi năm trước, Bùi Giáng
đã tự nguyện đi chăn bò, chăn dê trên rừng núi Trung Trung Bộ. Mươi năm sau,
nhà thơ Lê Đạt bị khổ sai làm một việc tương tợ, trong chương trình lao động
cải tạo sau vụ án Nhân văn Giai Phẩm, tại vùng đồi núi Chí Linh, Bắc Bộ, từ
tháng 8-1958 đến tháng 2-1959. Phải chăng trong thời kỳ này ông đã sáng tác,
hay thai nghén bài Ông cụ chăn Dê trong tập thơ Bóng Chữ (1994) mở đầu bằng chân trời mông lung :
Ông cụ
mịt mù dê phía núi
Ríu rít làng và khói xóm lưng
Ríu rít làng và khói xóm lưng
Thơ Lê Đạt tân kỳ, đôi khi
cầu kỳ, nhưng có nhiều đoạn trong sáng :
Đàn dê bỏm bẻm trăng
Mấy lũn cũn dê con
Chân tân tất trắng
Vểnh râu thang gọi
Be he ông
Mấy lũn cũn dê con
Chân tân tất trắng
Vểnh râu thang gọi
Be he ông
Bỏm bẻm trăng là một hình ảnh
sáng tạo độc đáo, vừa cụ thể vừa thơ mộng, gợi hình : một khuôn mặt già hom
hem, nhá bánh tráng nướng, đối lập với đám dê lũn cũn – mà Hồ xuân Hương gọi là
"dê cỏn" - chân tân tất trắng. Từ ngữ "tân tất" mới mẻ, táo
bạo, sang trọng. Có lúc Lê Đạt đồng hóa đàn dê với sao trời, hay "Bóng
Chữ" lay động trên trang giấy
Đếm đi đếm lại
Một con dê trắng... hai con trắng dê
Ba con dê trắng
Dê hằng hà nghìn lẻ vỗ bạch đêm
Ơ những con A, con Bê, con Xê
Con Dê
bản trang trang trắng thảo thơm
Một con dê trắng... hai con trắng dê
Ba con dê trắng
Dê hằng hà nghìn lẻ vỗ bạch đêm
Ơ những con A, con Bê, con Xê
Con Dê
bản trang trang trắng thảo thơm
Cũng như trong thơ Bùi Giáng,
không mấy khi trong ngôn ngữ, bình thường hay văn học, con dê được trọng vọng
như vậy.
Và đây là niềm tin cuộc
sống, ở vũ trụ và con người, qua tiếng be he đón xuân :
Rừng
động xanh
Ai đừng được xuân
Mấy dê non buồn sừng húc gió
Cẫng lên cỡn lên
Be he xuân
(tr. 58-61)
Ai đừng được xuân
Mấy dê non buồn sừng húc gió
Cẫng lên cỡn lên
Be he xuân
(tr. 58-61)
Phải đặt bài thơ vào những
năm 1958-1959 gian lao của tác giả, đồng cảnh với nhiều bạn văn bạn thơ đồng
hội đồng thuyền khác, mới thấy được sức sống mãnh liệt của con người qua văn
học và biết trân trọng tiếng nói của văn học.
Từ con dê non ngây thơ khao
khát tự do, chết vì tự do, trong truyện ngắn của Alphonse Daudet, đến hình ảnh
con dê chon von trên đỉnh núi, tận cùng của dấu thảo dường dê, chim kêu vượn hú
tứ bề núi non, trong truyện Lục vân Tiên, chúng ta tìm thấy một hình ảnh dê
hiền lành, kham khổ, nạn nhân của phong tục, lễ nghi và bia miệng.
***
Nhân chuyện dê năm Mùi,
chúng ta ôn lại một số chuyện văn học và văn hóa.
Thành ngữ và thành kiến " dê băm lăm " có lẽ chỉ xuất hiện trong dân gian về sau, do
ảnh hưởng phương Tây. Trong văn chương truyền khẩu hay văn bản xưa chúng ta
không gặp những câu xúc phạm đến dê. Ngược lại những thành ngữ như " treo đầu dê bán thịt chó ", hay " kêu như dê tế đền " tạo hình ảnh đáng thương một con vật hiền lành,
vô tội, oan khuất, bị lợi dụng hay hy sinh -- và từ thuở Hồng Bàng thời nảo
thời nao.
Ngược lại, ngày nay chúng
ta đang có những bài thơ hiện đại xuất sắc, khôi phục danh tiết cho con dê, mà
chúng ta nhớ lại nhân ngày Tết Năm Mùi.
Đồng thời, lần theo " đường dê " - mà Nguyễn Trãi ngày xưa có lần gọi là " dương trường đường hiểm khúc co que
" - chúng
ta ghi dấu vài bước chân trong quá trình Thơ Quốc Âm từ buổi sơ nguyên, đến
những bài thơ Việt Nam hiện đại nhất.
Đặng Tiến
(Nguồn: Chim Việt Cành Nam)
(Nguồn: Chim Việt Cành Nam)
(1) Thơ Huy Cận và Tố Hữu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét