Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2014

QUYỂN SÁCH CHÉP TAY - truyện ngắn TRẦN DUY PHIÊN



QUYỂN SÁCH CHÉP TAY

truyện ngắn TRẦN DUY PHIÊN


I.

Một ngày làm cỏ mệt bở hơi tai, tôi vác cuốc về tới nhà, thằng bé hàng xóm ôm vở chờ ở hiên. 
- Có việc gì đấy, cháu? - Tôi hỏi, lao cuốc vào bụi chuối sau hè. 
Thằng bé ngập ngừng rồi theo tôi vào nhà. 
- Cháu có điều không hiểu, hỏi chú - Ngồi xuống chiếc ghế con, nó mở vở kê lên hai bắp đùi - Câu này, chú à... - Ngón tay lấm mực tè ra trên mặt giấy, nó ngẩnmặt nhìn tôi. 
- Thì đọc đi - Đang thay áo bên trong liếp cửa, tôi giục, người rít rát đặc quánh mồ hôi.
- "Mai cốt cách tuyết tinh thần" - Thằng bé đọc. 
Tôi không thèm nhìn theo ngón tay nó nữa. Ba mươi năm trước, tôi đã thuộc lòng. "Mai cốt cách tuyết tinh thần / Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười",hai câu thơ Đoạn Trường Tân Thanh hiện trong trí tôi rõ như hai người đẹp. 
- Thúy Kiều, Thúy Vân đó mà! - Tôi cười, kéo ghế ngồi bên thằng bé. 
- Cháu cũng hiểu thế - Nó ngước nhìn tôi - Nhưng mà... Nhưng mà thưa chú, cái chữ "mai" ấy à! 
Hiểu ý thằng bé, tôi giải thích: 
- "Mai" ở đây là cây có hoa trắng hoặc vàng, cuối đông nở hoa. Thơ biểu tượng, tác giả muốn ví vóc dáng hai nàng. 
Thằng bé thỏa mãn, vui vẻ ra về. 

II.



Thằng bé vui vẻ ra về, tôi bắt đầu buồn bực. 
Cũng như mọi người, lớn lên tôi cố học lấy một nghề mình thích. Không tính tháng ngày lê la ở mẫu giáo, mười hai năm phổ thông, bốn năm chuyên nghiệp, tôi dạy học. 
Kiếm sống bằng phấn chưa được mười năm, tôi đành thôi dạy. Tờ xin nghỉ việc tôi gửi tận tay cha nó. Ngày ấy anh Hoàng còn sống, đương chức hiệu trưởng. Anh quản lý nhà trường như một đại tá cầm quyền tư lênh. Anh rót vào tai chúng tôi và buộc gội lên đầu học trò những tràng kế hoạch, phương án, biện pháp, triển khai, tiến công, khẩn trương, quán triệt, theo dõi, bám sát, truy diệt... Chúng tôi không thấy kẻ thù đâu, trấn áp ai, thanh toán cái gì! Nhưng vì pháp lệnh, phải có thành tích báo cáo, phải phấn đấu tiên tiến, đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua để được nâng lương, chí ít, cũng có chút tiền thưởng. Giáo viên theo dõi truy bức nhau. Học sinh rình rập bới móc nhau. - Nghĩa là từ thầy đến trò phảitạo cho ra đối thủ và biến thành nạn nhân mà góp ý xây dựng. Nhưng góp không thấy chỉ có tan, xây không kịp đổ. Căng quá, đứt. Lương tri là loại đèn không cần năng lượng nào cả. Kiến thức không đủ chất mặn để muối mặt. Học sinh bỏ học, giáo viên bỏ nghề. Nhưng tôi ra đi không hẳn vì lý do ấy. 
Cũng như người thợ coi trọng đồ nghề, thầy giáo chúng tôi quý sách. 
Anh Hoàng truyền một lệnh từ trên xuống tịch thu sách báo đồi trụy. Chi đoàn cho người đến tận nhà tôi mang giúp hơn ngàn quyển sách tới trường. Tôi rưng rưng xin anh Hoàng cho giữ lại một số thiết thân, cam đoan đây là những sách nghiêm túc dùng để tra cứu. Anh nhìn tôi với ánh mắt lạnh, bực bội, ngấm ngầm răn đe. Tôi uất lắm nhưng câm lặng. Chính giữa hội trường, sách báo ném vào tới tấp, un cao như một ngọn đồi. Sợ người ta nhìn thấy ngấn nước trong mắt, tôi ra về ngay. Tuần sau, phòng chứa sách được dọn sạch, không sót tấm bìa. Một người bạn nói sách chuyển đi bán ký để gói hàng hoặc tái chế. Một người khác nói sẽ chuyển ra bãi rác, đốt sạch. Trong số sách của mình, tôi tiếc thương mấy bộ Larousse, bộ Bách Khoa Số Học, Sử Ký Tư Mã Thiên, tập tranh thời Phục Hưng, bộ Chiến Tranh Và Hòa Bình, Anh Em nhà Karamazov, toàn tập thơ Đường, Dịch Kinh, Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh, ... và nhất là tập Đoạn Trường Tân Thanh do thầy tôi chép tay bằng chữ Nôm cho tôi - món quà mến tặng đứa học trò cưng nhất của thầy. 

III.


Sáng hôm sau, thằng bé qua nhà tôi thật sớm. 
- Chú ơi! - Nó gọi lớn từ ngoài ngõ. 
- Gì đấy nữa? - Tôi hỏi, cố sửa giọng cho bớt sẵng. 
- Cháu mới đọc tờ báo này... - Nó bước vào, hai tay căng ra trước mắt tôi một trang báo. Đang cho nước vào bình, tôi cúi xuống. Thằng bé tỏ ra lo lắng - Tác giả bài này không giải thích như chú. 
Nước đổ tràn lan, mắt tôi vẫn không rời những dòng chữ nhỏ như kiến. Tác giả bài báo tự đắc phát hiện "mai" trong câu thơ này không phải loại hoa cảnh, "mai" ở đây là một giống tre. Cơ sở đưa ra để phủ bác cách hiểu cũ là trích hai câu trong bài ca dao lính thú đời xưa: 
- "Miếng ăn măng trúc măng mai, những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng" - Thằng bé đọc lớn đoạn văn, nhìn tôi chờ đợi. 
Trúc, mai, giang, nứa,... đều là họ nhà tre. Tôi sinh ra ở Huế, lớn lên, đi vào thì có đi ra thì chưa. Cây mai tre tôi nào biết gốc ngọn mô tê nhưng tổ tiên đã đưa vào câu hát kia mà! Cái gì mình không biết không phải không có. Ngày ở Huế, tôi chỉ biết tre trúc, tre hóp, tre mày, tre giáo, tre lồ ô, tre giang, tre ngà, tre mỡ, tre gai, tre vàng,... Lên Kontum, tôi biết thêm tre le. 
- Cháu đã hỏi mẹ chưa? 
- Dạ rồi, mẹ cháu không biết. Mẹ cháu dạy môn sử. Mẹ cháu nói qua nhờ chú chỉ cho. 
- Thế thầy giáo phụ trách bộ môn? 
Nó đứng im lặng. Bóng nắng vào sân. Công trồng là công bỏ, làm cỏ là công ăn -bài học nghề mới của tôi. Nghĩ đến đám mì, cỏ dại đang theo mưa tranh đất, tôi nói: 
- Cháu đi hỏi thầy giáo ngay đi. Phần chú, chú chưa biết phải giải thích thế nào cho ổn. Để thư thả, chú suy nghĩ, tra cứu lại. 
Thằng bé ra về. Tôi vác cuốc lên vai, vừa đi vừa nhớ quyển sách của thầy tôi cho. 

  IV.



Tôi đang ăn cơm, thằng bé đi thẳng vào nhà. 
- Thầy giáo mắng cháu là thứ vớ vẩn, không chịu tiếp thu. Giáo khoa là pháp lệnh. Trong sách không học cứ chạy đi tìm ngoài. Cuối năm, rớt mới trắng mắt ra. 
Tôi vẫn tiếp tục ăn. Nó kéo ghế ngồi bên, tỉ tê kể lại. theo thầy giáo, "mai" ở đây là cây mơ, có nơi gọi là môi, quả nhỏ như táo Tàu, thường dùng làm kẹo - kẹo "ô mai" vừa ngọt vừa mặn vừa chua các em hay ngậm đấy! Thầy giáo cũng không vừa, dẫn chứng ca dao: "Trúc xinh trúc mọc bờ ao, mai xinh mai đứng nơi nào cũng xinh". Thầy còn lập luận: "Nếu Nguyễn Du dùng từ "mai" là tre, sao không viết "Tre cốt cách..." hoặc "Trúc cốt cách..."sẽ phổ cập và tạo được biểu tượng điển hình hơn. Nguyễn Du là một nhà thơ chứ đâu phải nhà sưu tầm các giống cây hiếm, viết để nhiều người hiểu. Vậy "mai" ở đây nhất quyết không phải mai tre. 
- Cháu về học bài đi! - Tôi nói vào lúc cuối bữa - Cháu cũng biết, cả ngày hôm nay chú ở rẫy, không biết bàn bạc với ai một chữ. 
Thằng bé về, tôi mặc áo đi ngay. Tôi chợt nhớ anh Phùng, một tay văn học, bậc đàn anh lịch lãm của tôi. Sách không có, hỏi người, biết sao! 
Anh Phùng vui vẻ đón tôi, sai con pha trà, rút ngăn kéo lấy ra mấy điếu thuốc thơm. Anh cũng khó khăn như tôi, thường hút thuốc rê. Ai cho năm ba điếu, anh dành lại, gặp bạn tâm đắc mới đưa ra. Mồi thuốc xong, tôi vào đề ngay: 
- Anh hiểu thế nào về từ "mai" trong "mai cốt cách ...?" 
Anh Phùng cúi thấp đầu như cố tập trung trí lực kéo một ký ức từ xa. 
- "Mai" là một loại tre - Anh thận trọng nói. 
Tôi tạm đứng về phía đối lập, gom cả ý mình cộng với lập luận của thầy giáo, phản bác lại anh tới tấp. 
Anh Phùng ngồi im một lúc, xe những sợi tóc bạc giữa những ngón tay khô khốc. Tôi đã quen phong thái trầm lặng của anh. Đến lúc bình trà cạn, anh nói: 
- Các cụ ta ngày xưa không đề cao cây "mai cảnh" bằng cây "mai tre". Họ nhà tre biểu trưng cho quân tử. Tiết trực tâm hư - Anh cười - Nếu con chim sẻ đậu trên cành mai cảnh không đủ biện minh cho sự phẫn nộ của Mạc Đỉnh Chi và quốc trạng của chúng ta làm sao hàng phục được các danh sĩ Trung Hoa - Anh lại cười - Từ Huế trở vào, người ta quí cây "mai cảnh", trở ra, người ta trọng đào. Đừng quên Nguyễn Du sinh ra và lớn lên ở Nghệ An. 
- Nhưng biết đâu - Tôi đặt nghi vấn - Nguyễn Du viết Đoạn Trường TânThanh khi đã vào Huế làm quan? 
Anh Phùng cau mặt ngồi im. Trời trở lạnh, tôi ra về. Lần này anh Phùng không giúp tôi được gì. Đêm nay chắc khó ngủ. Lao lực như nông dân, lao tâm như trí thức là cách sống thiệt thòi nhất của một công dân trong xã hội. Nhưng tôi đã lỡ mang nghiệp vào thân! 

V.


Thằng bé để yên cho tôi ba hôm rồi qua lại. 
- Chú giúp cháu được chưa? 
Tôi lắc đầu. Vẫn chưa hết tin tưởng, nó hỏi tiếp: 
- Vậy làm sao hở chú? 
- Có một cách... - Tôi chợt im, tránh nhìn nó. 
- Chú nói đi. 
- Chú có một quyển Đoạn Trường Tân Thanh chép tay bằng chữ Nôm, thứ chữ mà Nguyễn Du dùng để viết nên tác phẩm ấy. Chỉ việc mở sách ra, cúi xuống... Nếu "mai" trên đầu có bộ trúc là mai tre, nếu ở bên có bộ mộc là mai cảnh. 
- Sao chú không làm ngay việc ấy từ hôm kia? 
- Cha cháu đốt mất của chú đã lâu rồi! 
Thằng bé đứng cúi mặt. Tôi ngồi lặng thinh. 

Kontum 09.11.1989.

Trần Duy Phiên



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét