Nhân dịp mừng Ngọc Khánh Linh Mục của Cha già đáng kính Gioakim Nguyễn Thúc Nên, chúng tôi xin sưu tầm giới thiệu đôi nét về Giáo xứ Nhà Đá, Quy Nhơn, quê hương của Cha già Gioakim (Truông Dốc), cũng như một số linh mục khác phục vụ Gp. Kontum: Cha Micae Thiên (Hòa Mục, Lm: 1910; phục vụ Kontum: 1910-1914; Qđ: 25.09.1946 tại Quy Nhơn), Cha Phaolô Lê Đình Ban (Suối Nổ, 1881-1945), Cha Phêrô Nguyễn Vân Đông (Truông Dốc, Tổng Đại Diện), Cha Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn (Truông Dốc, Hưu tại TGM Kontum).
Giáo xứ Nhà Đá, thuộc tỉnh Bình Định, Gp. Quy Nhơn, nơi đã sản sinh ra nhiều linh mục cho Gp. Quy Nhơn và các nơi khác như Gp. Kontum…Ngày xưa, Giáo xứ Nhà Đá đã từng chiếm vị trí trung tâm sinh hoạt tôn giáo của Gp. Quy Nhơn trong một thời gian dài. Ngày nay vị trí ấy được nhường lại cho giáo họ Gò Đồng với tên gọi mới : Nhà thờ Phù Mỹ, giáo xứ Phù Mỹ.
---ooo---
Lược sử Giáo xứ Nhà Đá
(Gp. Quy Nhơn)
Di tích nhà thờ Nhà Đá hiện nay
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ :
Nhà thờ Nhà Đá, trung tâm sinh hoạt tôn giáo của giáo xứ Nhà Đá tọa lạc tại một đồi dốc thuộc thôn Đại Thuận, xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ, bên trái trục quốc lộ IA (từ Nam ra Bắc), cách thị trấn Phù Mỹ khoảng 06 km. Nhà thờ Nhà Đá ngày nay hoang phế trơ mình giữa nắng mưa như đang khát khao chờ đợi bàn tay tô điểm của con người.
II. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ :
Nhà Đá hay Truông Dốc là một giáo xứ đã đón nhận Tin Mừng từ tiền bán thế kỷ 18.
Theo bảng thống kê Danh Sách Nhà Thờ, Nhà Nguyện năm 1747 do linh mục Guillaume Rivoal ghi phần Thừa Sai Ba-lê và Thánh Bộ Truyền Giáo; Linh mục Jakob Graff ghi phần Dòng Tên ; Linh mục Felipe de la Concepcion ghi phần Dòng Phanxicô thì phần đất tỉnh Bình Định (Qui-ning) lúc bấy giờ có 02 nhóm Thừa Sai Truyền Giáo hoạt động : Từ Kiều Đông (Ki-dou) thuộc Phù Cát vào phía Nam thuộc Hội Thừa Sai Ba-Lê (M.E.P.) có 13 giáo điểm; Từ Phù Mỹ ra phía Bắc thuộc Dòng Phanxicô có 14 giáo điểm, trong đó có Mương lỡ [1] được 80 tín hữu, là nơi đón nhận Tin Mừng sớm nhất trong các giáo họ thuộc giáo xứ Nhà Đá ( Truông Dốc ) [2].
Theo bảng thống kê của Thánh Giám mục Stêphanô Thể gởi về Hội Thừa Sai Ba-lê năm 1850 thì Bình Định có 04 giáo hạt, trong đó có hạt Phù Ly gồm 18 giáo điểm, trong đó có giáo điểm Mương lỡ : 230 tín hữu ; Truông Dốc : 78 tín hữu [3]. Nhà thờ Phù Ly nay không còn gì cả. Phía Tây Nam cầu Phù Ly có nhà thờ Xuân Hội, ngày nay cũng đã bình địa. Hiện nay còn di tích mộ giếng, theo lời truyền khẩu mộ giếng nầy là nơi chôn xác những tín hữu bị phong trào Văn Thân bách hại. Ngoài ra có một số mộ còn thánh giá do ông Phan Xuồng chăm sóc.
Lúc bấy giờ số Linh mục còn ít ỏi, sự hiện diện của Linh mục nơi các giáo điểm có tính cách vãng lai. Mương Lỡ (Hòa Mục) là một giáo điểm có các Linh mục hiện diện thường xuyên hơn. Vào tháng 03/1882 Đức cha Luy Galibert bổ nhiệm Linh mục Théodule Joseph Hamon (cố Lựu) đến ở tại Truông Dốc với nhiệm vụ như một cha sở (comme curé). Lúc đầu cộng đoàn tín hữu Truông Dốc ở tại chân một gò đất trên triền núi phía Bắc, nơi đây trống trải, gió lạnh, nhất là mùa Đông sinh nhiều bệnh tật. Do đó đầu năm 1883, cha Hamon dời cộng đoàn lên đỉnh dốc như ngày nay. Đang lúc củng cố cơ sở vật chất tạm ổn định, đầu tháng 8 năm 1885 ngài phải dẫn một số đông tín hữu trong vùng về Qui Nhơn lánh nạn phong trào Văn Thân, sau đó vào Vĩnh Long cho đến khi phong trào Văn Thân chấm dứt. Tháng 07/1887 số tín hữu ở lại Qui Nhơn bắt đầu trở về quê, ngày 01/8/1887 ngài dẫn tín hữu tạm cư ở Vĩnh Long về lại Truông Dốc. Cha Hamon tổ chức truy tập thân xác các tín hữu trong xứ đã bị bách hại. Ngày nay tại nghĩa địa Truông Dốc có một trụ tứ giác với Thánh giá trên đỉnh, cao khoảng 02 m, xung quanh trụ có sân đất vuông, tục truyền đây là nơi an nghỉ của các vị ấy.
Sau khi ổn định cuộc sống, cha Hamon xây dựng nhà thờ Truông Dốc bằng đá ong, một công trình đầu tiên bằng đá của giáo phận Đông Đàng Trong. Trước đó 200 năm, năm 1687 tại Phủ Cam, Huế, linh mục Pierre Langlois (1640-1700) thuộc Thừa Sai Ba-lê đã xây nhà thờ bằng đá lớn nhất Đàng Trong dài 49m rộng15m, dân chúng đã gọi cha Langlois là “cha Vêrô Đá’’. Nhà thờ Truông Dốc được khánh thành ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1889, lễ nầy cũng được chọn làm bổn mạng của giáo xứ, tên gọi Nhà Đá cũng phát xuất từ ngôi nhà thờ đá nầy. Ngoài công trình nhà thờ, cha còn xây 03 nhà : Cho các chú giúp, cho người neo đơn, nuôi trẻ mồ côi. Một trong các giấy tờ ruộng đất liên quan đến các cơ sở nầy có đoạn ghi “Giấy đất điền acheté 1500q, pour moi soussigné et payé de mon argent personnel pour mon orphelinat de Truông Dốc près Phù Mỹ” – Tạm dịch “ Giấy đất điền được mua 1500 quan, cho nhà mồ côi Truông Dốc của tôi ở gần Phù Mỹ do tôi ký tên dưới đây và được trả bằng tiền riêng của tôi” [4].
Sau khi hoàn thành nhà thờ Truông Dốc, cha Hamon củng cố các giáo điểm, mua ruộng đất tạo nguồn kinh tế-tài chánh cung cấp cho những nhu cầu thờ phượng, bác ái, truyền giáo, giáo dục miễn phí. Ngài làm việc mục vụ tại đây 26 năm, năm 1908 ngài nghĩ hưu tại Nhà Đá, tháng 3/1910 trở về Pháp và qua đời tại Montbeton ngày 06/5/1911. [5] .
Tiếp nối cha Hamon có các cha sở và các cha phụ tá[6]:
* CÁC CHA SỞ :
STT
|
TÊN THÁNH HỌ TÊN
|
THỜI GIAN
|
GHI CHÚ
|
01
|
Théodule Joseph HAMON
|
1882– 1908
| |
02
|
Gustave Paul DUBULLE
|
1908– 1909
| |
03
|
Charles Eugène SAULÇOY
|
1909– 1914
| |
04
|
Jean Marie GUÉNO
|
1914– 1924
| |
05
|
Giuse MIỄN
|
1921- 1923
|
Tạm Quyền
|
06
|
Jean Liévin SION
|
1925- 1931
|
Giámmục 1941
|
07
|
Phêrô NHÌ
|
1931- 1933
| |
08
|
Gioakim Phan Công SỬ
|
1933- 1946
| |
09
|
August Nguyễn Thanh LONG
|
1946- 1948
| |
10
|
Phêrô Nguyễn Sĩ TƯ
|
1948- 1953
| |
11
|
Giuse Lê Văn LY
|
1953- 1957
| |
12
|
Phêrô Nguyễn Vĩnh LƯU
|
1957- 1962
| |
13
|
Bernard Phan Văn HOÀNG
|
1962- 1965
| |
14
|
Các cha Dòng Đồng Công
|
1965– 1975
| |
15
|
Phêrô Nguyễn Công SANH
|
1975– 1996
|
cha sở Phù Cát, kiêm nhiệm
|
16
|
Anrê Đinh Duy TOÀN
|
1996 -
|
cha sở
|
*CÁC CHA PHỤ TÁ :
STT
|
TÊN THÁNH HỌ TÊN
|
THỜI GIAN
|
GHI CHÚ
|
01
|
F.x. SANH
|
02/1907-10/1907
|
Ở Truông Dốc
|
02
|
Cha TÁNH
|
10/1907-8/1908 (1)
12/1911- 3/1912 (2) |
Ở Truông Dốc
|
03
|
Phêrô QUA
|
1908 - 1911
|
Ở Cây Rỏi
|
04
|
Gioan Bt. HẬU
|
1912
|
Ở Truông Dốc
|
05
|
Simon THỌ
|
1914 - 1916
|
Ở Truông Dốc
|
06
|
Phêrô TỪ
|
1916 - 1917
|
Ở Truông Dốc
|
07
|
Giuse Nguyễn TÝ
|
1920 - 1922
|
Ở Truông Dốc
|
08
|
Simon TÔN
|
1922 - 1926
|
Ở Suối Nổ
|
09
|
Phêrô NHÌ
|
1926 - 1929
|
Ở Truông Dốc
|
10
|
Stêphan Cao Tấn TRUYỆN
|
1933 – 1936
|
Ở Cây Rỏi
|
11
|
Antôn Hoàng Liên MẦU
|
1936 – 1938
|
Ở Cây Rỏi
|
12
|
Giacôbê Nguyễn Hữu THIÊN
|
1939
|
Ở Truông Dốc
|
13
|
Gioan Bt. HỘ
|
1938 – 1941
|
Ở Cây Rỏi
|
14
|
Phêrô Nguyễn Văn QUYỂN
|
1940 – 1941
|
Ở Suối Nổ
|
15
|
Dôminicô Châu PHẬN
|
1942 – 1946
|
Ở Cây Rỏi
|
16
|
Phêrô Lê Đức CHÂU
|
1946 – 1947
|
Ở Cây Rỏi
|
17
|
Antôn Hồ Ngọc HẠNH
|
12/1947- 02/1948
|
Ở Cây Rỏi
|
Ngoài các linh mục được chính thức bổ nhiệm trên đây, còn có các linh mục được phép Đấng Bản Quyền về nghỉ dưỡng tại các giáo họ như:
- Cha Phaolô Nguyễn Minh Đoan về nghỉ ở Suối Nổ và qua đời tại đây năm 1949.
- Cha Gioakim Phan Công Sử về nghỉ tại Cây Rỏi từ năm 1963 – 1965.
Dọn đất, gieo hạt, chăm bón, thu hoạch là tiến trình tuần tự của nhà nông. Trong việc rao giảng Tin Mừng tiến trình ấy được kết nối đan xen với nhau. Năm 1931, cha Phêrô Nhì trùng tu công trình nhà thờ cũ do cha Hamon xây dựng. Công việc trùng tu chưa hoàn thành, trận bão tháng 10 năm Nhâm Thân ( 1932 ) đã làm sụp đổ hoàn toàn. Cha Gioakim Phan Công Sử xây lại nhà thờ, cha sử dụng nguồn gỗ từ những cây Sao do cha Hamon trồng khi ngài mới đến Truông Dốc. Theo gương vị tiền nhiệm, cha Sử đã trồng lại hàng Sao sau khi thu hoạch. Năm 1940 Nhà Đá trùng phùng niềm vui: Nhà thờ cha Sử xây dựng được khánh thành vào ngày 04/6/1940, và 18 học sinh thi Élémentaire đậu cả 18 [7]. Vào thời cha Hamon đã có trường học nhưng chưa đủ điều kiện để đi thi. Thời cha Sử, trường Nhà Đá do ông Louis Nguyễn Đức Bạng làm hiệu trưởng có đăng bộ với Ty Giáo Dục. Đạo và đời cùng phát triển, năm 1941 tổng số tín hữu Truông Dốc được 2.065 người trong 15 giáo họ : Họ chính Truông Dốc 288; Gò Vàng 64; Gò Đồng 255; Suối Nổ 387; Mương Lỡ 193; Bình Sơn 114; Gò Mít 71; Bình Tân 30; Vĩnh Ân 17; Tân Hóa 56; Hiệp Luôn 52; An Điềm 63; Cây Rỏi 256; Hội Sơn 41; và Tùng Chánh 178 [8].
Từ năm 1946 đến năm 1954 Cây Rỏi, Hội Sơn, Tùng Chánh, An Điềm, Hiệp Luôn, Vĩnh Ân và Tân Hoá được tách khỏi Nhà Đá lập thành địa sở Cây Rỏi do cha Anrê Nguyễn Văn Tường đảm nhiệm, sau năm 1954 nhập trở lại Nhà Đá.
Năm 1955, do sự bất cẩn, nhà thờ Nhà Đá bị hỏa hoạn, liền sau đó Đức cha Marcello Piquet Lợi, Giám mục giáo phận Qui Nhơn thuê ông thầu Võ Sĩ làm lại nhà thờ mới với cột kèo đúc bê-tông như hiện nay vẫn còn thấy [9].
Theo đúng Qui chế Giáo luật, ngày 30/01/1958 Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, Giám mục giáo phận đã ký quyết định nâng lên hàng giáo xứ bán chính thức (Quasi paroisse) các nơi sau đây: Đà Nẵng, Trà Kiệu, cù Và, Gia Hựu, Nhà Đá, Gò Thị, Qui Nhơn và Mằng Lăng [10]. Ngày 06/02/1961 theo quyết nghị của Hội Đồng Địa Phận công bố các nơi trong địa phận thành giáo xứ chính thức (Paroisse), trong đó có giáo xứ Nhà Đá [11].
Được sự đồng ý của Đức Giám mục giáo phận, đầu năm 1958 các tu sĩ Dòng Đồng Công đã đến làm việc truyền giáo tại Mỹ Thọ, huyện Phù Mỹ. Nguyên khu truyền giáo nầy do cha Phêrô Trịnh Hoài Ân gầy dựng bao gồm các xã : Mỹ Thọ, Mỹ Chánh, Mỹ An, Mỹ Thành, Mỹ Cát và Cát Minh của huyện Phù Cát. Cơ sở vật chất trụ sở truyền giáo Mỹ Thọ do các tu sĩ Dòng Đồng Công xây dựng và khánh thành ngày 23/8/1958 [12].
Năm 1965, cha Bernard Phan Văn Hoàng cùng với số đông tín hữu vào Qui nhơn để tránh bom đạn chiến tranh. Đến năm 1967 cha Hoàng xin chuyển về làm việc ở Đà Nẵng. Đức cha ĐaMinh Hoàng Văn Đoàn , Giám mục Qui Nhơn giao xứ Nhà Đá cho Dòng Đồng Công phụ trách. Trong nổ lực phát triển con người toàn diện, các tu sĩ Đồng Công mở phòng phát thuốc, trường dạy học, ký túc xá, tất cả đều miễn phí. Niên khóa 1970 – 1971 số con em trong vùng đã đến trường do các tu sĩ Đồng Công phụ trách [13]:
Bậc Trung Học :
- Trường Đồng Công (ở Nhà Đá ) : 215 học sinh ( lớp cao nhất : Lớp 9)
- Trường Toàn Mỹ (ở Mỹ Chánh) : 111 học sinh (lớp cao nhất : Lớp 6)
Bậc Tiểu Học :
- Trường Toàn Mỹ (ở Mỹ Chánh) : 111 học sinh (lớp cao nhất : Lớp 6)
Bậc Tiểu Học :
- Trường Đồng Công ( Nhà Đá) : 744 học sinh (lớp cao nhất : Lớp 5)
- Trường Toàn Mỹ ( Mỹ Chánh) : 357 học sinh (lớp cao nhất : Lớp 5)
- Trường Thiên Mẫu (TT.Phù Mỹ):238 Học sinh (lớp cao nhất : Lớp 5).
Vì là vùng đất thường đón nhận bom đạn chiến tranh, từ năm 1965 đến 1968 đa số dân chúng di cư đi nơi khác. Hầu hết họ đã ổn định cuộc sống nơi những vùng đất mới , nên khi hoà bình được vãn hồi nhiều người trong số họ không trở về quê quán. Tháng 3/1975 các Tu Sĩ Đồng Công rời khỏi Nhà Đá và cũng không trở lại.
Tháng 4/1975, Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các, Giám mục Qui Nhơn bổ nhiệm cha Phêrô Nguyễn Công Sanh làm quản xứ Phù Cát, kiêm nhiệm Nhà Đá.
Ngày 18/9/1996, cha Anrê Đinh Duy Toàn được bổ nhiệm làm quản xứ Phù Mỹ, Nhà thờ Phù Mỹ nguyên là nhà thờ giáo họ Gò Đồng thuộc giáo xứ Nhà Đá, cách nhà thờ Nhà Đá khoảng 06 km về hướng Nam. Đây là nơi duy nhất trong xứ Nhà Đá có số giáo dân sum họp thường xuyên , nhà thờ các giáo họ khác đều sụp đổ hư nát.
- Trường Toàn Mỹ ( Mỹ Chánh) : 357 học sinh (lớp cao nhất : Lớp 5)
- Trường Thiên Mẫu (TT.Phù Mỹ):238 Học sinh (lớp cao nhất : Lớp 5).
Vì là vùng đất thường đón nhận bom đạn chiến tranh, từ năm 1965 đến 1968 đa số dân chúng di cư đi nơi khác. Hầu hết họ đã ổn định cuộc sống nơi những vùng đất mới , nên khi hoà bình được vãn hồi nhiều người trong số họ không trở về quê quán. Tháng 3/1975 các Tu Sĩ Đồng Công rời khỏi Nhà Đá và cũng không trở lại.
Tháng 4/1975, Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các, Giám mục Qui Nhơn bổ nhiệm cha Phêrô Nguyễn Công Sanh làm quản xứ Phù Cát, kiêm nhiệm Nhà Đá.
Ngày 18/9/1996, cha Anrê Đinh Duy Toàn được bổ nhiệm làm quản xứ Phù Mỹ, Nhà thờ Phù Mỹ nguyên là nhà thờ giáo họ Gò Đồng thuộc giáo xứ Nhà Đá, cách nhà thờ Nhà Đá khoảng 06 km về hướng Nam. Đây là nơi duy nhất trong xứ Nhà Đá có số giáo dân sum họp thường xuyên , nhà thờ các giáo họ khác đều sụp đổ hư nát.
III. CÁC LINH MỤC & TU SĨ XUẤT THÂN TỪ GIÁO XỨ NHÀ ĐÁ :
* CÁC LINH MỤC :
STT
|
TÊN THÁNH, HỌ TÊN
|
GIÁO HỌ
|
GHI CHÚ
|
01
|
Giuse Chung
|
Hòa Mục
| |
02
|
Anrê Cậy
|
Truông Dốc
| |
03
|
Micae Thiên
|
Hòa Mục
| |
04
|
Phaolô Bang
|
Suối Nổ
| |
05
|
Phaolô Nguyễn Tưởng
|
Bình Sơn
| |
06
|
Phaolô Bường
|
Gò Mít
| |
07
|
Phêrô Giảng
|
Truông Dốc
| |
08
|
Gioakim Nguyễn Lịch
|
Truông Dốc
| |
09
|
Phêrô Lê Vĩnh Phước
|
Truông Dốc
| |
10
|
Phaolô Trương Công Chánh
|
Hòa Mục
| |
11
|
Aug. Nguyễn Khắc Cần
|
Gò Đồng
| |
12
|
Phaolô Võ Hữu Tư
|
Suối Nổ
| |
13
|
Phanxicô Nguyễn Quang Hiền
|
Gò Vàng
| |
14
|
Gioakim Huỳnh Văn Hóa
|
Suối Nổ
| |
15
|
Phêrô Nguyễn Hữu Sanh
|
Cây Rỏi
| |
16
|
Martinô Nguyễn Trọng Huấn
|
Hòa Mục
| |
17
|
Gioan M. Nguyễn Đức Thống
|
Hòa Mục
| |
18
|
Gioakim Nguyễn Thúc Nên
|
Truông Dốc
| |
19
|
Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn
|
Truông Dốc
| |
20
|
Phêrô Nguyễn Vân Đông
|
Truông Dốc
| |
21
|
Giuse Võ Đình Sen
|
Truông Dốc
| |
22
|
Gioakim Phạm Công Văn
|
Truông Dốc
| |
23
|
Phêrô Trần Văn Tâm
|
Gò Đồng
| |
24
|
Giuse Lê Thu Thâu
|
Suối Nổ
| |
25
|
Gioakim Huỳnh Công Tân
|
Cây Rỏi
| |
26
|
Giuse Phạm Ngọc Tuấn
|
Truông Dốc
|
CÁC TU SĨ :
STT
|
TÊN THÁNH HỌ TÊN
|
GIÁO HỌ
|
GHI CHÚ
|
01
|
Tu huynh Nguyễn Sanh
|
Truông Dốc
|
Dòng Lasan, ở Canada
|
02
|
Phêrô Nguyễn Đình Phục
|
Truông Dốc
|
Dòng Phanxicô
|
03
|
Rosalie Nguyễn Thị Đây
|
Truông Dốc
|
Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn
|
04
|
Béatrice Nguyễn Thị Lập
|
Truông Dốc
|
Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn
|
05
|
Anna Nguyễn Thị Bích Nga
|
Truông Dốc
|
Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn
|
06
|
Maria Nguyễn Thị Bạch Vân
|
Truông Dốc
|
Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn
|
07
|
Maria Võ Thị Tuyết
|
Hòa Mục
|
Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn
|
08
|
Têrêxa Nguyễn Thị Kim Khánh
|
Cây Rỏi
|
Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn
|
09
|
Luxia Nguyễn Thị Kim Thanh
|
Truông Dốc
|
Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn
|
10
|
Maria Nguyễn Thị Kim Sơn
|
Truông Dốc
|
Dòng Nữ Vương Hòa Bình
|
11
|
Matta Nguyễn Thị Lệ Bân
|
Truông Dốc
|
Dòng Bác Ái Vinh Sơn
|
12
|
Anê Huỳnh Thị Thảo
|
Cây Rỏi
|
Dòng Nữ ĐaMinh Rosa Lima
|
13
|
Maria Dương Thị Hồng Thủy
|
Gò Mít
|
Dòng Đức Bà Truyền Giáo
|
14
|
Maria Trần Thị Mỹ Loan
|
Gò Đồng
|
Dòng Đức Bà Truyền Giáo
|
15
|
Maria Trần Thị Mỹ Lệ
|
Gò Đồng
|
Dòng Trinh Vương Bùi Môn
|
16
|
Maria Trần Thị Mỹ Vân
|
Gò Đồng
|
Dòng Trinh Vương Bùi Môn
|
17
|
Têrêxa Phan Thị Bang (Vân)
|
Gò Đồng
|
Dòng Trinh Vương Bùi Môn
|
18
|
Ysave Huỳnh Thị Kim Tuy
|
Suối Nổ
|
Dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết
|
V. HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI
Giáo họ Truông Dốc hay Nhà Đá đã từng chiếm vị trí trung tâm sinh hoạt tôn giáo của giáo xứ trong một thời gian dài. Ngày nay vị trí ấy được nhường lại cho giáo họ Gò Đồng với tên gọi mới : Nhà thờ Phù Mỹ, giáo xứ Phù Mỹ.
Nhà thờ Nhà Đá ‘vang bóng một thời’ nay đang hoang phế rêu phong làm cho phong cảnh mang màu ảm đạm và lòng người không khỏi xót xa ngậm ngùi, cho dù là :
“Không phải con chiên chưa lần chịu lễ
Lòng vẫn chùng trong thoáng nghĩ bâng quơ
Này phế tích cho hỏi lời rất nhẹ
Người xưa đâu ? năm tháng mấy ai về .”
( Lê Thanh Lành)
Cho dẫu ‘người xưa năm tháng mấy ai về’, thì nhiệm vụ lịch sử trong giây phút hiện tại vẫn là của người hôm nay. Ước mong nhà thờ Nhà Đá được tô điểm để cùng hòa mình với nét đẹp của quê hương, với sự thay da đổi thịt từng ngày của đất nước, của non sông.
Nhà thờ Giáo xứ Phù Mỹ
Giáo hạt Bình Định, Gp. Quy Nhơn
Giáo hạt Bình Định, Gp. Quy Nhơn
[1] Tức Hòa Mục, ngày nay thuộc xã Cát Tài, huyện Phù Cát
[2] (LAUNAY, Histoire de la Mission de Cochinchine, Vol.II, p.187-191; ĐỖ QUANG CHÍNH, Sống Trong Xã Hội Con Rồng Cháu Tiên, tr. 295).
[3] Mémorial số 58, ngày 31/10/1909, tr. 151-153
[4] Giấy nầy hiện nay ông Lê Văn Tường tổ 05, Hiền Hòa, Phước Thái, Long Thành, Đồng Nai còn lưu giữ.
[5] Fiche individuelle d Hamon ; Mm.no.76/1911, p.64; Compte-Rendu 1941,p.30 - 35.
[6] Theo sổ Rửa Tội, Hôn Phối, Mémorial , Archivesmep.mepasie.org và Thông Tin Địa Phận
[7] Mm. Mai-Juin 1940, p. 04
[8] Compte-Rendu 1941, p.30
[9] Trên vách tường bên phải cung thánh (dưới nhìn lên) có mộ cải táng cha Micae Chương. Cha Micae Chương nguyên quán Ngọc Kinh, Quảng Nam. Cha qua đời tại Mương Lỡ (Hòa Mục) năm 1850 và được cải táng về Nhà Đá.
[10] Thông tin địa phận số 03/1958, tr.03
[11] TTĐP số 22/1961. tr.13
[12] Thông tin Địa Phận số 6/1958, tr. 7
[13] Thông tin Địa Phận số 66/1970, tr.54
Tác giả bài viết: Lm. Gioan Võ Đình Đệ
Nguồn tin: Gpquinhon.org
Nguồn tin: Gpquinhon.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét