Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

GIÁO XỨ TÂN ĐIỀN


Tin mới :

SA MẠC TÔNG ĐỒ ĐỘI TRƯỞNG CHỦ ĐỀ: “THẮP SÁNG TÌNH YÊU GIA ĐÌNH”

_____________________________________________



ĐÔI NÉT LỊCH SỬ GIÁO XỨ TÂN ĐIỀN
(Giáo Phận Kontum)

“Có những hạt lúa rơi vào đất tốt,
nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm,
hạt được sáu chục, hạt được ba chục.”
                               Mt 13, 8.
Nhà thờ Tân Điền

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ MỘT VÙNG ĐẤT
Từ xa xưa, Tây Nguyên là vùng đệm, một thời là nơi giao tranh giữa các bộ tộc. Do địa hình và chủng tộc, người Lào đã có quan hệ lâu đời và sâu với các dân tộc ở Tây Nguyên: Bản Đôn ở Đăk Lăk, Mường Hon ở cụm núi Ngok Linh…đến ngày nay còn mang nhiều dấu vết của Lào.
Vùng đất Tân Điền thuộc xã Đoàn Kết nằm ở phía tây nam của thành phố Kontum, từ xa xưa đã có quan hệ khá mật thiết với người Lào. Cánh đồng Hà-Ghẹt[1], cánh đồng lớn nhất của tỉnh Kontum, nằm cách thành phố Kontum 5 km thuộc thôn 5 xã Đoàn Kết, hiện nay vẫn còn vết tích những “ụ gò mối” được cho là “mồ mả xưa” mà người dân nơi đây gọi là “Mả Lào” ; hoặc trong lúc cày ruộng người dân đã phát hiện nhiều hiện vật như “ghè Lào”, “ché Lào”, những “xâu hạt cườm” vốn là đồ trang sức của cư dân Lào xưa.v.v. ; hay trong các buôn làng người dân tộc trong vùng trước đây từng lưu giữ nhiều bộ chiêng Lào…
Đây có thể là một làng người Lào đến định cư đã lâu đời trong vùng bình nguyên rộng lớn này, cũng có thể là vết tích của những người Lào chạy dạt vào đây do hệ quả của các cuộc chiến tranh bộ lạc ngày xưa…[2]
Tập quán lâu đời của người Lào là canh tác lúa nước. Có thể họ cũng đã từng khai phá lợi thế của vùng đất trũng này để làm ruộng.


Cánh đồng Hà-Ghẹt, thôn 5, xã Đoàn Kết được
gắn với truyền thuyết là “Ruộng Lào” nơi vị Tù Trưởng –
cha nàng Brai cai quản xưa kia.   
 
        Đến nửa sau thế kỷ thứ 19, khi người Pháp lập lên chế độ bảo hộ trên toàn vùng phía đông sông Mê Kông, đã thực hiện một số sửa đổi và định ra một số luật lệ về biên giới giữa Lào và Việt Nam, người Lào đã rời vùng này đi về phía Tây dãy Trường Sơn định cư như ngày nay.
Về sau, khi cư dân đến khai phá và sinh sống nơi vùng đất này, họ thường gọi nơi đây là “Ruộng Lào”.

II. THỜI KỲ SƠ KHAI
Khi các cơ sở công giáo đầu tiên đã được cha Do và các vị thừa sai thiết lập trên Miền Kontum, những tín hữu người Kinh từ miền xuôi theo chân các ngài lên Kontum làm ăn sinh sống đã đến cư ngụ tại làng Gò Mít (Tân Hương ngày nay). Những cư dân này đã khám phá ra vùng đất Ruộng Lào, lúc bấy giờ chỉ là một đồng cỏ hoang dại. Mùa nắng, ngoài những vùng trũng sình lầy cỏ xanh quanh năm, còn lại  thì cỏ khô héo, đất nứt nẻ. Nhưng về mùa mưa nước ngập trắng đồng, chim cá sinh sôi phát triển nhiều vô kể. Điều kiện thiên nhiên ưu đãi rất dồi dào, cùng với sự thích hợp cho việc canh tác lúa nước nên một số người đã cùng nhau đến đây khai khẩn và lập chòi cư ngụ.
Năm 1871, linh mục Phêrô Nguyên ở trung tâm Rơhai (Gò Mít-Tân Hương) đã qua bên kia sông Dak Bla lập làng Dak Kiă gần con suối Dak Kiă giáp ranh với Tân Điền ngày nay. Trong vài năm, làng Dak Kiă trở nên hưng thịnh nhờ những cánh đồng tươi tốt màu mỡ, dễ canh tác. Cha Nguyên đã làm nhà thờ cao ráo rộng rãi, nhà xứ và lán trại…Đến năm 1877, cha Nguyên theo lệnh Bề trên phải trở về phụ trách trung tâm Rơhai, nên dần dần làng Dak Kiă tan rã[3]. Nhưng một số người vẫn trụ lại, cộng với số dân mới đến định cư đã lập nên làng Phương Hòa (1892). Dân làng Phương Hòa đã đi vào sâu trong hướng phía tây để khai khẩn đất đai làm ruộng nước: “Làng Phương Hòa bên kia sông Bla gần Kontum bây giờ nhơn số hơn 300. Làng này xưa vốn là người Tân Hương theo cha Cận (P. Nicolas) qua lập đó cho dễ làm ruộng, vì bên trong có chỗ gọi là ruộng rộng và tốt dễ phá ruộng. Đến sau người ta đến thêm lần lần, và sau nầy chắc còn đông hơn”.[4]
Năm 1903, họ đạo Phương Hòa được thành lập trực thuộc trung tâm Rơhai (Tân Hương), do cha Nicolas Cận (MEP) coi sóc[5]. Cha Nicolas đã đưa thêm giáo dân sang vùng này, cộng với số di dân từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định lên lập nghiệp, nên số giáo dân trong vùng ngày một tăng thêm.
Để thuận tiện cho công việc đồng áng, một số giáo dân vào canh tác tại Ruộng Lào đã dựng chòi ở lại. Những Kitô hữu này thường qui tụ đọc kinh tối với nhau, nên đã cùng nhau dựng nên một nhà nguyện nhỏ bằng tranh nứa, trên một vị trí cao ráo, bao quát, chính giữa các trang trại. Vị trí nhà nguyện đầu tiên này nằm trong khu vực trường Trung học Cơ sở Nguyễn Bỉnh Khiêm, thuộc thôn 5, xã Đoàn Kết hiện nay[6].
Năm 1921, họ đạo Phương Hòa được nâng lên thành giáo xứ với cha sở tiên khởi là cha Phêrô Irigoyen (Hương)[7], Ruộng Lào lúc bấy giờ đã được công nhận là một xóm đạo trực thuộc giáo xứ Phương Hòa. Số giáo dân lúc ấy khoảng độ dăm ba chục người.

III. THÀNH LẬP HỌ ĐẠO RUỘNG LÀO 1933
Cha Phêrô Irigoyen (Hương)

Năm 1933 đã ghi dấu mốc quan trọng đối với cộng đoàn tín hữu Ruộng Lào: Họ đạo Ruộng Lào được thành lập, thuộc địa sở Phương Hòa, do cha Irigoyen (Hương) phụ trách[8]. Lúc này Họ Ruộng Lào đã có Ban chức việc hoàn chỉnh với ông Câu họ và quí ông Biện. Quí chức việc thời kỳ đầu có ông Câu Trần Tính (tức ông câu Hai), về sau có ông Câu Phạm Nhơn (còn gọi Câu Thuận hay câu Câu Đàn).v.v. 
Ngày 21/04/1935, cha Irigoyen qua đời sau 14 năm phục vụ địa sở. Đức Giám mục đã bổ nhiệm cha Phêrô Trần Ngọc Thích tiếp nối coi sóc địa sở Phương Hòa, bao gồm họ Ruộng Lào, Plei Hơnor, Plei Rơhai, Plei Groi và Kon Hara Kơtu. Tổng số tín hữu người Kinh cả Phương Hòa và Ruộng Lào vào năm 1936 là 517 người[9].

IV. THỜI KỲ PHÁT TRIỂN
Thập niên 1940 trở đi là thời kỳ phát triển cả về tôn giáo lẫn hành chính.
Từ năm 1942 đến 1949, họ Ruộng Lào lúc bấy giờ đã có thêm khoảng 20 giáo dân trưởng thành của 5 gia đình từ làng Phụng Sơn về gia nhập[10], cùng với số người công giáo từ miền đồng bằng lên lập nghiệp nên số lượng tín hữu trong họ đạo đã tăng lên. Năm 1948, số giáo dân họ Ruộng Lào là 174 người[11]. Họ đạo có thêm cha Micae Hiâu (Hóa) đến phụ tá (1946-1949). Do nhu cầu tôn giáo, cha Phêrô Thích đã cho phá dỡ nhà nguyện cũ, di dời về vị trí bây giờ và dựng lên một nhà thờ mới lát ván rầm, rộng 8 mét, dài 15 mét. Đồng thời ngài cũng dựng lên một nhà xứ (quen gọi là nhà vuông). Ngôi nhà thờ mới này được thánh hiến vào năm 1950, chọn Thánh Cả Giuse làm tước hiệu của Nhà thờ, cũng là thánh bổn mạng của họ đạo, lễ mừng vào ngày 19/03 hằng năm. 
Về hành chính, dân chúng đã làm nhà cư ngụ rộng khắp các khu vực trong làng Tân Điền, trải dài từ cánh đồng Hà-Ghẹt vào đến tận Dốc Xã Cảnh (đường vào xã Ia Chim). Đầu thập niên 1950,  ấp Tân Điền được thành lập, thuộc xã Phương Hòa. Họ Ruộng Lào từ đây cũng được gọi là họ Tân Điền, theo tên gọi hành chính của ấp Tân Điền thời đó.
Về tên gọi Tân Điền, theo ông Nguyễn Hữu Phú, trong tập “Tân Hương, làng Việt đầu tiên trên xứ Thượng” có ghi như sau:
“Sau Tân Hương, nhiều làng xã người Kinh được thành lập. Trừ các làng Trung Lương, Lương Khế, Võ Lâm được khai sinh theo đà phát triển của tỉnh, hầu hết các làng xã khác đều do số dân được các Cha đưa lên lúc đầu làm nòng cốt.
Riêng các xã ấp: Tân Thành, Tân Điền (1954), Tân Cảnh (1956), Tân Phú (1958) đã được thành hình do chính người dân Tân Hương đứng đầu hoặc làm nòng cốt, cho nên lấy chữ “Tân” đứng đầu, để nhớ đến làng Mẹ là Tân Hương.”[12]
(x. Nguyễn Hữu Phú, “Tân Hương, làng Việt đầu tiên trên xứ Thượng”, bản đánh máy chữ tháng 10.1974.)
Cũng trong năm 1950, Đức Giám mục đã bổ nhiệm cha Antôn Nguyễn Đình Nghĩa đến phụ trách họ đạo Ruộng Lào[13]. Như vậy, cùng với việc khánh thành ngôi nhà thờ mới, chọn thánh bổn mạng mới là Thánh Cả Giuse (bổn mạng cũ theo địa sở Phương Hòa là Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội) và có linh mục riêng biệt phụ trách, họ đạo Tân Điền trên thực tế đã trở thành một Chuẩn Giáo xứ[14].
Cha Antôn Nguyễn Đình Nghĩa

Năm 1952, Đức Giám mục đã cử cha Phêrô Dương Ngọc Đáng về giáo xứ Tân Điền để nghỉ dưỡng và lo mục vụ, thay cha Antôn Nguyễn Đình Nghĩa được thuyên chuyển đi nơi khác. Để chăm lo việc học hành của con em trong làng, cha Phêrô Đáng đã cho dựng lên một ngôi trường sơ cấp gồm hai gian bằng gỗ cà chít, mái lợp ngói và nền lát gạch. Đây là ngôi trường học đầu tiên của Tân Điền, được dựng trong khuôn viên đất của nhà thờ. Việc dạy học được tổ chức học theo kiểu “lớp ghép” (học sinh ít nên nhiều lớp cùng học chung một lúc và chỉ có một thầy dạy). Giáo viên được cha mời từ nơi khác đến, và học phí do phụ huynh đóng góp.
Mọi việc đang trên đà tiến triển thì ngày 05/09/1960, Cha Già Phêrô Dương Ngọc Đáng đã ra đi trong sự tiếc thương của cộng đoàn tín hữu của ngài.
Từ thời gian này, họ đạo Tân Điền lại bước sang một khúc quanh mới, trong nỗ lực vươn lên sống và làm chứng Tin Mừng Chúa Kitô, hướng đến tương lai.
V. HƯỚNG ĐẾN TƯƠNG LAI
Sau khi cha sở Phêrô Dương Dương Ngọc Đáng qua đời, họ đạo Tân Điền không có cha sở phụ trách riêng, nên trở lại thuộc quyền quản trị của cha sở Phương Hòa.
+Giai đoạn 1960-1967, họ đạo được Cha Gioakim Chế Nguyên Khoa coi sóc.
+Từ 1967-1969, cha Gioakim Nguyễn Thúc Nên phụ trách. Cha Gioakim Nguyễn Thúc Nên đã tiến hành xây dựng ngôi nhà thờ Tân Điền thứ 2, thừa kế nét gỗ của nhà thờ cũ do cha Phêrô Dương Ngọc Đáng dựng trước kia, và bản vẽ do Gioakim Chế Nguyên Khoa để lại. Kết cấu khung sườn nhà thờ bằng gỗ, mái đóng rui, mè và lợp ngói vảy. Ngôi nhà thờ được làm theo kiểu hình thánh giá, có hai cánh hai bên. Công trình chưa hoàn thành thì cha Gioakim Nguyễn Thúc Nên được thuyên chuyền đi nơi khác.
+Cha Giuse Trần Trí Tuệ đến phụ trách giáo xứ từ năm 1969-1983. Vừa nhận nhiệm sở, cha cùng với giáo dân tiếp tục hoàn thiện ngôi nhà thờ đang còn dang dở. Cha Giuse cho đóng bàn thờ mới, chuộc một tượng Thánh Giuse đặt trên máng thượng trước tiền đường nhà thờ và đặt mua một chiếc chuông đồng từ Sài Gòn về để sử dụng cho đến ngày nay. Và cũng từ đó, lệ kéo chuông báo tử trong họ đạo được thực hiện và duy trì cho đến bây giờ. Ngôi nhà thờ đã được Đức Cha Phaolô Seitz (Kim) làm phép thánh hiến vào năm 1970. Ngoài ra, cha còn dựng một cây Thánh Giá bằng gỗ cà-chít rục (chết khô) cổ thụ, đường kính hơn 1m, cao khoảng 25 mét trong khuôn viên nhà thờ. Vào những ngày lễ lớn cha cho treo cờ Tòa Thánh trên đỉnh, cả một vùng đều nhìn thấy rõ, trông rất uy nghi.
Những năm sau 1975 là những năm cực kỳ gian khó. Linh mục bị hạn chế đi lại. Mặc dù cha Giuse Trần Trí Tuệ tìm mọi cách để chăm sóc đoàn chiên Tân Điền, nhưng do hoàn cảnh, cộng đoàn tín hữu vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nhiều “tông đồ giáo dân” đã không quản ngại khó khăn gian khổ cộng tác với chủ chăn trong công việc mục vụ giai đoạn này. Để ngôi nhà thờ được tồn tại, một số giáo dân nhiệt thành đã duy trì việc đọc kinh tối thường xuyên ở nhà thờ và luôn giữ vững nề nếp phụng vụ trong giáo xứ.
+Năm 1983, Cha Simon Phan Văn Bình được bổ nhiệm chính xứ Phương Hòa kiêm Tân Điền (1983-1997). Sau nhiều năm thiếu bóng linh mục vì luôn bị chính quyền cản trở, ngôi Thánh Đường cũng đã xuống cấp trầm trọng. Cha Simon và quý chức việc phải đóng cọc lõi kè nền móng và giăng giữ các vách khỏi bị đổ sập. Sau khi vườn tiêu không thành, Cha Simon đã tái tạo lại khuôn viên nhà thờ bằng một màu xanh hoa viên.
+Giai đoạn 1997-2010, cha Giuse Đỗ Hiệu được bổ nhiệm về thay cha Simon Phan Văn Bình. Cha sở Giuse Đỗ Hiệu đã quan tâm lo lắng cả về đời sống tinh thần lẫn cơ sở vật chất cho giáo xứ. Cầu nguyện và đời sống nội tâm được cha chú trọng đặc biệt.  Vừa nhận nhiệm sở, cha  đã bãi bỏ ngay thói quen tổ chức ăn uống tốn kém nơi nhà tang vốn đã thành lệ trói buộc giáo hữu xưa nay. Cha tổ chức tĩnh tâm cho các giới, cổ võ tôn kính Lòng Chúa Thương Xót…Vào ngày 24/07/1998, cha đã tiến hành khởi công xây dựng ngôi nhà thờ mới (nhà thờ thứ 3 hiện nay). Sau 8 tháng thi công, ngày 19/03/1999, giáo xứ Tân Điền đã hân hoan đón chào ĐGM Giáo phận Phêrô Trần Thanh Chung cùng với 24 Linh mục về đồng tế thánh hiến ngôi nhà thờ mới. Cha Giuse cũng đã xây dựng Nhà xứ, 2 dãy nhà giáo lý và một nhà kho, khởi công ngày 12/01/2009, khánh thành ngày 08/11/2009.
Sau 13 năm tận tụy phục vụ giáo xứ, đến ngày 28/11/2010, cha Giuse Đỗ Hiệu được thuyên chuyển đến giáo xứ Tân Hương. Nguyện vọng của vị chủ chăn và cộng đoàn dân Chúa là một thời gian không xa, chuẩn giáo xứ Tân Điền sẽ được nâng lên thành giáo xứ thực thụ, có cha xứ và có tên giáo xứ trong sổ bạ của Giáo Phận.
+Cha Luy Nguyễn Quang Vinh được bổ nhiệm về địa sở Phương Hòa, tiếp tục coi sóc giáo xứ Tân Điền (từ 28/11/2010 đến nay 2013).
Cha Luy đã kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức sẵn có của giáo xứ.  Cha đã khéo léo kết hợp giữa giáo dục đạo đức và nâng cao trình độ tri thức cho giáo dân. Mọi hoạt động đang trong chiều hướng phát triển tốt đẹp…  
Cha Luy Nguyễn Quang Vinh

Đức Cha Micae - Thánh lễ ban phép Thêm Sức



VI. VÀI NÉT VỀ GIÁO XỨ TÂN ĐIỀN HIỆN NAY 2013
Ranh giới giáo xứ Tân Điền hiện nay gói gọn trong xã Đoàn Kết, thuộc Thành phố Kontum, có trục Tỉnh lộ 671 chạy qua xã Đoàn Kết và xã Ia Chim và các đường giao thông liên thôn, tiếp giáp với 01 phường và 05 xã: phía đông giáp phường Nguyễn Trãi (giáo xứ Phương Hòa), phía nam giáp xã Hòa Bình (giáo xứ Trung Nghĩa), phía tây giáp xã Ia Chim và xã Đăk Năng (giáo xứ Plei Jơdrâp…), phía bắc giáp xã Ngọc Bay và Vinh Quang (bên này sông). Xã đoàn Kết là một xã thuần nông, người dân sống chủ yếu bằng nông nghiệp chiếm tỷ lệ 98%, còn lại một số hộ buôn bán nhỏ lẻ, hàng năm số người từ địa phương khác đến tạm trú làm ăn theo thời vụ rất đông.  Hiện nay giáo xứ Tân Điền có 5 Xóm giáo thuộc các thôn 5, 6 và 7 của xã Đoàn Kết[1] và Xóm giáo Stêphanô thuộc Ia Chim:
-Xóm giáo Mân Côi (thôn 5)
-Xóm giáo La Vang (thôn 5)
-Xóm giáo Fatima (thôn 6)
-Xóm giáo Lộ Đức (thôn 7)
-Xóm giáo Stêphanô (Ia Chim)
Tổng số giáo dân khoảng 2.100 người.
Ngoài ra còn có làng dân tộc Plei H’nor[2] (hướng gần Ia Chim) thời gian trước đây cũng về nhà thờ Tân Điền để được chăm sóc mục vụ.
Quí chức việc qua các thời kỳ có các vị như:
Ông câu Trần Tính (Câu Hai), thời kỳ đầu ;
Ông câu Phạm Nhơn (câu Thuận hay câu Đàn) làm việc rất lâu, mãi đến thời cha Gioakim Nguyễn Thúc Nên ;
Các ông biện như biện Thiên, biện Bảo, biện Tuệ…
Hiện nay là các ông câu Nguyễn Chánh ; quý ông biện Ngô Đình Quyền, Nguyễn Văn Nhanh, Phạm Trung Kỳ.v.v.
Năm 2013, Giáo xứ Tân Điền kỷ niệm 80 năm thành lập họ đạo (Ruộng Lào 1933-2013), 63 năm Chuẩn giáo xứ Tân Điền (1950-2013). Trải qua bao thăng trầm, cộng đoàn giáo xứ vẫn giữ vững đức tin, sống chứng tá Tin Mừng và làm triển nở  hạt giống Lời Chúa trên mảnh đất thấm đượm mồ hôi nước mắt của bao thế hệ tín hữu. Nếu như thuở sơ khai chỉ với vài ba giáo dân đến khai khẩn lập chòi nơi vùng đất Ruộng Lào xưa kia, trải qua 80 năm hành trình đức tin can trường và sống động, giáo xứ Tân Điền ngày nay đã vượt qua con số 2000 tín hữu, xấp xỉ số tín hữu của giáo xứ Phương Hòa kề cận. Đó thật sự là một hồng ân cao quí Chúa đã ban cho giáo xứ! Nhờ lời chuyển cầu của Thánh Cả Giuse, cộng đoàn giáo xứ tin tưởng Thiên Chúa sẽ ân ban một mùa gặt dồi dào trên “cánh đồng ruộng mới”-giáo xứ Tân Điền, ngay hôm nay và trong suốt hành trình  tương lai.


                                                           Phêrô Minh Sơn
                                           Lễ Thánh Têrêxa HĐGS, 1.10.2013





CHÚ THÍCH:
[1] Cũng có khi viết là Hà-Gặt. Tuy nhiên theo những bản đồ điền thổ thời Pháp thuộc về vùng đất này còn lưu giữ tại các gia đình ở Tân Điền, đều ghi là Hà-Ghẹt. Ngoài ra trong vùng Tân Điền-Ia Chim còn có các địa danh như Hà Dul, Hà Giay, Hà Măt, Ba Voi.v.v.
[2] Sự tích “Ruộng Lào” còn được gắn với truyền thuyết về một câu chuyện tình được nhiều thế hệ người dân nơi đây biết đến: Câu chuyện tình đẹp và buồn giữa nàng Brai con của tộc trưởng Lào và chàng trai J’Lưng dân tộc Bahnar sống ở thượng nguồn sông Dak Bla…Sau khi nàng Brai không thuyết phục được chàng J’Lưng, nàng quay trở về và từ đó bị ốm và chết trong sự buồn bã nhớ nhung…
(x. “Như lạc vào chốn xưa”, Tường Lam, www.kontum.gov.vn).
[3] x. Cha Ban và Cha Thiệt, Kể sự cha Nguyên lập làng Dak Kiă, “Mở Đạo Kontum”, Nhà in Qui Nhơn 1933 tr.189-190.
[4] x. Cha Ban và Cha Thiệt, sđd tr.234.
[5] x. Echos de la Mission, Địa phận Kontum, số tháng 2-3-4/1948, tr.5.
[6] Theo lời kể của các vị bô lão tại Tân Điền 8/2013 (x. Vài nét về giáo xứ Tân Điển, Philip Phương, gx Tân Điền 2013).
[7] x.  Echos de la Mission, Địa phận Kontum, số tháng 2-3-4/1948, tr.5.
[8] x.  Echos de la Mission, Địa phận Kontum, số tháng 2-3-4/1948, tr.5.
[9] x. La Mission des Pays Mois en 1937.
[10] Làng Phụng Sơn do cha Simon Nguyễn Diện lập năm 1924 ở vùng gần Ia Ly, gốc cũng bởi người Tân Hương và Phương Hòa. Tuy nhiên làng không phát triển, và một số  đã quay lại gia nhập vào các làng khác.
[11] x. Echos năm 1949, tr.6.


[12]  Tên gọi “Tân Cảnh” do Đức cha Phêrô Trần Thanh Chung đặt ra phiên âm theo tên làng dân tộc Dak Tơkan. Tuy nhiên về cư dân người Kinh ở Tân Cảnh thời kỳ đầu vẫn do nòng cốt là dân Tân Hương đến lập nghiệp.
[13] Cha Antôn Nguyễn Đình Nghĩa đang dạy học tại TCV Thừa sai Kontum đã đến giúp mục vụ từ cuối năm 1949 (x. Tiểu sử cha Antôn N.Đ. Nghĩa)
[14] Theo Giáo luật Điều 516, Triệt 1: “Trừ khi luật đã dự liệu cách khác, chuẩn giáo xứ được đồng hóa với giáo xứ ; chuẩn giáo xứ là một cộng đoàn Kitô hữu nhất định trong giáo hội địa phương được ủy thác cho một tư tế như là chủ chăn riêng của chuẩn giáo xứ ấy, nhưng vì hoàn cảnh đặc biệt chưa được thiết lập thành giáo xứ.” (x. Bộ Giáo luật 1983, HĐGMVN, NXB Tôn Giáo, Hà Nội 2007). 
[15] Xã Đoàn Kết trước đây có tất cả 7 thôn (từ 1 đến 7). Từ khi chia tách Phường Nguyễn Trãi, xã Đoàn kết chỉ còn lại các thôn 5, 6 và 7 (các thôn 1, 2, 3, 4 thuộc Phường Nguyễn Trãi).
[16] Làng Plei H’nor nguyên ngày xưa ở cạnh con suối H’nor, đầu làng Phương Hòa (vị trí sân banh cũ). Làng H’nor tòng giáo năm 1900 và trực thuộc TT Rơhai, đến năm 1921 thuộc địa sở Phương Hòa (x. Echos tháng 2-3-4/1948, tr.5). Khoảng trước năm 1975, Plei H’nor đã di dời vào xã Đoàn Kết vị trí hiện nay (gần Ia Chim). 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét