Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2020

ĐỨC CHA STEPHAN KUÊNOT (THỂ) LẬP MIỀN TRUYỀN GIÁO XỨ THƯỢNG




 THÁNH GIÁM MỤC STÊPHANÔ CUÉNOT THỂ (1802-1861)

Đức Cha lập địa phận Mọi (*)

Bổn tính Đức Cha bền vững, hễ quyết việc gì thì chẳng bỏ, gặp ngăn trở chừng nào, thì phấn phát lước thắng chừng nấy.

Vả Người đã sai cố chính Mịch và cố Lộ lên giảng đạo cho mọi Phú-yên. Sự bất thành, như đã nói trước, thì Người bèn sai Cha Vận và Cha Hòa lên mở đạo cho mọi Đồng-đỏ, tỉnh Bình-định, xứ Bồng-sơn. Đoạn sai mở lại ngã Thạch-thành, tỉnh Phú-yên: chỗ nầy mở dạy đặng chừng mười năm; đến sau bị dịch khí, mọi sợ chết, xin làm sự dị đoan; song các Cha cấm không cho, thì nó nổi dậy đuổi các Cha các thầy chạy hết. Đức Cha cũng sai mở đạo ngã mọi Bình-thuận, Quảng-ngãi và Quảng-nam nữa, song việc không thành.

Đến năm 1848, Người thừa dịp Tự-đức mới tức vị, còn nguôi cơn bắt bớ, mà quyết mở ngả An-khê.

Khi ấy, có thầy năm Do, là người mạnh mẽ chững chàng, lại nhơn đức. Đức Cha đòi đến mà nói liền rằng: “Nay thầy phải đi ngã An-khê, mà dò thử đàng lên mọi, hoặc may lập đạo trên ấy đặng chăng. Ta tin cậy thầy sẽ làm nổi việc, miễn là thầy giữ lòng gan dạ bền chí. Vậy thầy hãy dọn mình chịu chức, đoạn đi.”

Cách ít ngày, thầy sáu Do vưng lời Đức Cha Thể mà lên đàng. Tới An-khê, ở thuê trong nhà lái buôn kia, cùng theo chủ lên mọi, mà do thám. Qua sáu tháng, thầy trở xuống, trình Đức Cha tự sự. Đức Cha lại dạy đi một lần nữa, cùng cho ít người theo giúp: hết thảy giả lái buôn lên tuốt trên cao; rủi bị mọi toan giết, bèn trốn về hết.

Đức Cha hỏi đầu đuôi, thì quyết cứ ngả Trạm-gò mà mở đạo trên mọi, chắc đặng, nên bèn dạy cất nhà tại đó, cùng sai một ít người bổn đạo chắc chắn lên ở tạm, giúp kẻ lên người xuống cho dễ.

Cuối năm 1849, Người sai Cố Vêrô (P. Combes), và một ít thầy giúp việc, thảy theo thầy sáu Do dẫn đàng lên. Tới gần Trạm-gò, phần thì đàng hiểm trở, phần thì mưa lụt, nên phô kẻ ấy ngã lòng tháo về cả. Đức Cha liền quở trách, sao việc Chúa mà non lòng nhát gan, không rán cho thành việc, đoạn rằng: “Nhằm mưa lụt, thì thôi: Ta cho nghỉ nửa tháng, rồi lo trở lên, mà phen nầy phải đi cho tới nơi, chớ cả gan liều mình trở về làm chi.”

Cách nửa tháng, phô người ấy trở lên lại. Phen nầy, Đức Cha sai thêm cố Hoàn (P. Fontaine) theo lên nữa. Khi xuất hành, Đức Cha căn dặn: lên, thì phải lo tránh làng mọi kia, tên Khiêm làm chủ, vì chưng tên nầy đặng thế thần cả núi mọi, lại có bằng sắc lo việc vua Annam trên cả núi ấy, kẻo hoặc gặp phải tay nó, thì chắc bị bắt giải xuống nạp quan mà hư sự.

Khỏi ít ngày, nghe tin hai Cố và các thầy phải tay tên Khiêm, thì Đức Cha áy náy lo lắng thổn thức một giây, đoạn cầm mình lại mà rằng: “Tôi đem lòng lo sợ làm chi. Việc Chúa, thì Chúa sẽ lo liệu cho sáng danh Người.” Đức Cha lại rằng: “Phần tôi hết lòng ước ao mở đạo Đức Chúa Giêsu trên miền ấy, nên mới khấn buộc mình một đều, cùng quyết giữ cho đến mãn đời; còn các việc khác, âu là Chúa sẽ lo.”

Hản thật Chúa cho như ý đầy tớ Người nguyện xin. Vì chưng tên Khiêm chẳng những không bắt các Cha các thầy Đức Cha sai lên, mà lại buộc mình binh vực giúp đỡ; và đến sau, khi quan Annam cấp quân lính lên tìm bắt kẻ giảng đạo, thì nó giữ lời giao ước, ra công lo cứu các Cha các thầy khỏi tay quân dữ.

Trừ thầy sáu Do, Đức Cha lại sai thầy Thám, thầy Tài, thầy Chính, thầy Bảo, thầy Biểu, thầy Bường, thầy Tiển, chú Phiên, hết thảy là học trò Pinăng, lên liên tiếp, chuyên lo giúp việc đại sự ấy. Đến sau, Đức Cha đòi thầy Do cùng thầy Bảo xuống, truyền chức thầy cả, rồi cũng dạy trở lên ở trên địa phận mọi luôn.

Đức Cha cũng sai các Cố lên mà coi sóc, giảng dạy, và lo mở rộng Hội thánh, cho thỏa lòng phô kẻ ấy đã khẩn nguyện khi vượt biển qua phương đông, kẻo ở trong phần đất Annam, phải trốn tránh ẩn tàng luôn, chẳng làm việc gì đặng. Hoặc ai bị rét mà chết, thì Đức Cha sai người khác kế tiếp. Các Cố Đức Cha sai lên mọi lúc ấy, là Cố Vêrô (P. Combes), làm Bề trên, Cố Hoàn (P. Fontaine), Cố Đề (P. Degouts), Cố Ân (P. Dourisboure), Cố Viêm (P. Lacroix), Cố A (P. Arnoux) và Cố Xuân (P. Verdier).

Khi Đức Cha phải bị bắt mà tạ thế, thì địa phận Mọi vốn chưa đặng mấy trăm người trở lại đạo, lại phần thì xứ độc địa, phần thì cấm kín, nên Đức Cha chưa dời đặng nhà trường nhà mồ côi lên trên ấy, như ý Đức Cha ước ao; song cũng đã lập thành hai ba chỗ, chỉ nhờ ơn mưa đức gió, hầu trổ sanh hoa quả lợi lãi ba mươi, sáu mươi cùng một trăm mà thôi. Cố An chép rằng: “Nay lập địa phận Mọi thành công, ắt là trước nhờ Chúa phù hộ, sau nhờ ơn Đức Cha Thể bền chí vững vàng, cùng lòng Người hằng cháy lửa ái mộ phần rỗi muôn dân, chẳng nệ liều chông gai chuyên lo gầy dựng”.

Rày địa phận Mọi đặng hơn một muôn bổn đạo, lại mới lập riêng một nhà trường lớn, đặt tên là nhà trường Đức Cha Thể, để lưu danh rạng tiếng Người vạn đại.

 

(Trích R.P.TARDIEU - HẠNH ĐỨC CHA THỂ, Mgr. Cuénot (1802-1861), LANG-SONG, IMPRIMERIE DE LA MISSION 1907)

Minh Sơn giới thiệu

 ______________________

(*) Mọi: tên gọi cũ xứ Thượng (Vùng Tây Nguyên)

 Miền Truyền Giáo xứ Thượng (Mission des pays Moys)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét