Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Năm, 8 tháng 3, 2012

Nhìn lại một chặng đường phát triển chữ Quốc ngữ



Nguyễn Đức Dân


Đường D'Adran (nay là Hồ Tùng Mậu), một
trong những địa chỉ từng in tờ Gia Định báo

Những biến đổi của chữ Quốc ngữ gắn liền với những diễn biến phát triển văn hóa xã hội qua những giai đoạn lịch sử của đất nước.


Chữ Quốc ngữ trong vai trò truyền bá văn hóa 


Chữ Quốc ngữ là một hệ chữ La tinh viết theo cách ghi âm. Rất đơn giản và dễ  học. Truyền bá được chữ Quốc ngữ là người Việt có cơ hội bắc cầu để tiếp xúc với những nền văn minh Tây phương rất quan trọng dùng chữ La tinh.

Nhưng để chữ Quốc ngữ sau khi ra đời có thể thực sự hòa vào dòng chảy tiếng Việt thì công lao đầu tiên là của báo chí. Những nhà văn, nhà báo lớn đầu tiên của Việt Nam là những người ý thức rất rõ về vai trò của chữ Quốc ngữ và tiếng Việt đối với sự hưng thịnh của nền văn hóa dân tộc và tồn vong của đất nước. Nguyễn Văn Vĩnh từng nói “Nước Nam ta mai sau này, hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ”. Phạm Quỳnh cũng có một câu bất hủ: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; Tiếng ta còn, nước ta còn”.

Nguyễn Văn Vĩnh là người có biệt tài về dịch văn chương phương Tây sang tiếng Việt. Ông chịu khó tìm trong kho thành ngữ, tục ngữ của ta những câu diễn đạt ý tưởng mới của Âu Tây khiến văn dịch của ông tưởng như những nguyên tác tiếng Việt. Ngay năm đầu tiên của Đông Dương tạp chí,  năm 1913, Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch đăng bài thơ ngụ ngôn của  La Fontaine “Con Kiến và con Ve sầu” và nhanh chóng được đông đảo bạn đọc yêu thích.

Tuy nhiên, để phổ cập chữ Quốc ngữ thì nhất thiết phải chuyển tải được vào giáo dục, và ở đây chúng ta không thể không nhắc đến công lao GS. Hoàng Xuân Hãn. Ông là người đặt ra danh từ khoa học, nhờ đó tiếng Việt có thể được dùng để dạy ở bậc trung học và đặc biệt là ở đại học. Trước đó Gia Định báo gặp nhiều khó khăn khi diễn đạt các thuật ngữ khoa học: “Mạch nước nóng, nước ngũ kim”, “nước thán khí” chứ chưa gọi là  nước khoáng,  nước có gas.


Giản dị hóa, đời sống hóa chữ Quốc ngữ - dấu ấn báo chí Nam bộ

Trong lịch sử hình thành ngành báo ở Việt Nam, báo chí xuất hiện ở Nam bộ sớm hơn ở Bắc bộ (những tờ báo đầu tiên của Việt Nam là Gia Định báo (GĐB, 1865) ở Nam bộ, tiếp theo là Đông Dương tạp chí (ĐDTC, 1913), và Nam Phong tạp chí  (1917) ở Bắc bộ, và có vai trò quan trọng trong việc giản dị hóa, đời sống hóa chữ Quốc ngữ, dù vai trò này từng có lúc chưa được các học giả nhìn nhận đúng mức.

Trong khi ở Bắc bộ Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương ngôn ngữ báo chí là thứ ngôn ngữ gọt giũa, văn chương thì Trương Vĩnh Ký, ngay từ 1869 đã khuyến khích và huấn luyện “các thầy thông ngôn, ký lục, giáo tập” làm thông tín viên báo chí,  cung cấp bài vở cho phần  “Tạp vụ” của tờ GĐB dùng một thứ ngôn ngữ phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn dễ đọc, sao cho “tiếng Việt trơn tru như lời nói”.

Tuy nhiên, phương tiện giao thông chuyên chở báo lúc đó chỉ là những “xe tờ” ngựa kéo. Mãi năm 1922 mới có xe hơi đi từ Sài Gòn đến lục tỉnh. Bởi vậy, lúc mới ra đời, ảnh hưởng của GĐB nói riêng và báo chí Nam bộ nói chung chưa vượt ra khỏi vùng đất Nam bộ. Điều này cũng giải thích vì sao vai trò của ĐDTC và NPTC  được nhấn mạnh hơn.

Về từ ngữ, đáng chú ý  nhất là GĐB dùng rất ít từ Hán –Việt. Có vậy giới bình dân Nam bộ còn chưa thông thạo chữ Quốc ngữ mới dễ đọc, dễ hiểu.

Về ngữ pháp và phong cách, những câu viết trên báo giống như những lời kể chuyện thật tự nhiên. Không thấy những câu bị động. Văn viết (bút ngữ) trên báo rất gần với lời nói (khẩu ngữ). Sự việc xảy ra thế nào thì cứ tuần tự hiện ra trong ngôn ngữ như thế, khiến trong câu có nhiều động từ, ít danh từ. So với các bản tiếng Pháp tương tự thì ít giới từ hơn hẳn.

Bên cạnh đó, người Nam bộ rất sáng tạo khi nhập từ nước ngoài vào tiếng Việt. Trong khi người Bắc bộ vay mượn chủ yếu theo cách phiên âm thì người Nam bộ thời xưa trong nhiều trường hợp đã nhận thức bản chất của sự kiện để sáng tạo ra những từ ngữ mới. Khi chiếc xe đạp đưa vào Việt Nam, tất cả các bộ phận đều chưa có từ để gọi, ấy thế là người miền Bắc phải mượn các từ tiếng Pháp frein,  enveloppe, chambre à air, garde-boue,… rồi phiên âm ra  tiếng Việt: phanh, lốp, săm, gác-đờ-bu (mãi sau mới chuyển thành cái chắn bùn)… Nhưng người Nam bộ không thế. Họ dùng những từ có sẵn đặt tên cho các bộ phận: thắng, vỏ, ruột, vè…


Biến đổi ngôn ngữ là do tự thân văn hóa, thẩm mỹ xã hội 

Tiếng nói một dân tộc luôn luôn thay đổi ở cả 3 mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp, nhanh chậm, nhiều ít khác nhau tùy lúc tùy nơi. Thay đổi về ngữ âm rất chậm, hầu như không thấy. Thay đổi ngữ pháp diễn ra nhanh hơn nhưng vẫn rất chậm và ít. Biến đổi từ vựng thì nhanh hơn và thường xuyên hơn. Tuy nhiên, mọi sự thay đổi luôn xuất phát từ những nhu cầu nội tại của con người và xã hội.

Từ nhu cầu thực tiễn trong sử dụng tiếng Việt người ta thường tự động thêm các ký tự  F, J, W, Z  vào bộ chữ cái để viết các từ ngoại lai và không gặp trở ngại gì, và cũng chẳng cần tới những văn bản “pháp quy” đưa 4 ký tự trên vào bảng chữ cái chữ Quốc ngữ.

Chữ viết là quy ước nên chuẩn mực chính tả cũng là quy ước. Chính tả do con người đặt ra. Như mọi hệ thống chữ viết khác, không tránh khỏi một số bất hợp lý trong chữ Quốc ngữ. Cho nên, đôi lúc đó đây lại có những đề nghị “cải tiến” chữ Quốc ngữ và chính tả. Nhưng một khi đưa ra những quy tắc pháp quy không hợp lý thì người ta sẽ “vượt rào”.

Quy định chính tả cho âm vị có hai cách viết i/y rơi vào trường hợp này. Ngày 30.11.1980  Bộ Giáo dục ra quy định: “…trường hợp các âm tiết có nguyên âm i  ở cuối thì viết thống nhất bằng i , trừ uy…”  Quy định trên không chú ý tới một quy tắc bất thành văn về tính thẩm mỹ  trong chữ Quốc ngữ: hình chữ phải đẹp,  trong đó có sự  cân đối về độ cao giữa các con chữ khi viết. Cân đối nghĩa là ghép những phụ âm cùng độ cao với /i/ thì có khuynh hướng dùng  i:  Ví dụ:  viết  vi phạm, vì vậy, vị trí,  si mê,  mị dân … mà không viết vy phạm, vỳ vậy, vỵ trí, sy mê; mỵ dân. Còn khi ghép cùng một phụ âm có phần nhô cao lên thì ta viết y  nhằm tạo ra sự hài hòa trên dưới.  Viết lý thì phần trên và phần dưới chữ này cân đối với nhau, còn viết  lí  thì phần dưới chữ này hơi bị hụt. Trong GĐB và  Nông Cổ Mín Đàm (NCMĐ) đều viết như vậy: chánh lý, có lý lắm, ký tên, thơ ký, trong kỳ 15 ngày, xem kỹ…

Kích thước con chữ cũng là một lý do thẩm mỹ, theo xu hướng hình thức phản ánh nội dung: Chữ i có kích thước ngắn hơn chữ y,  tạo ra ấn tượng là một đối tượng nhỏ. Vậy nên có khuynh hướng dùng i ngắn cho những đối tượng tạo ra  ý niệm  nhỏ: li ti, tỉ mỉ, vi tính, chi li, chi tiết, chơi bi, sân si, lí nhí … Hình như không ai viết chơi by, tỷ mỷ; chy ly, chy tiết, vy tính…


Phức tạp hóa,  “quan cách hóa” tiếng Việt và những hệ lụy

Trong truyện ngắn Đôi mắt  của Nam Cao có tình tiết một anh dân quân đánh vần chưa thạo chữ Quốc ngữ nhưng đã nói thuộc lòng một bài 3 giai đoạn kháng chiến phòng ngự, cầm cự, tổng phản công … ‘dài đến năm trang giấy’ với những cụm từ còn khá xa lạ với ngôn ngữ thời ấy như “đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực dân, phát xít, phản động, dân chủ với cả tân dân chủ” (trích  Đôi mắt, 1948). Câu chuyện của nhà văn có thể phần nào hư cấu, nhưng đã phản ánh một thực tế là từ cách đây gần 65 năm đã xuất hiện trên cửa miệng người dân bình thường những khái niệm cao xa theo đúng đường lối, theo chỉ thị, nghị quyết, dù có lẽ không phải ai cũng hiểu hết ý nghĩa.

Xu hướng ấy tiếp tục kéo dài sáu bảy thập kỷ tiếp theo, một khoảng thời gian đủ dài để tạo ra hai thế hệ với thói quen ngôn từ nói năng đúng giáo điều dù chưa chắc đã hiểu thấu đáo. Điều này dẫn tới hệ lụy là xã hội  hình thành  thói quen chấp nhận,  tư duy thụ động, không muốn lật lại nghĩa lý của từ ngữ, câu chữ, khái niệm và lập luận khi tiếp nhận văn bản. Vả lại, nếu ai đó có suy nghĩ độc lập, muốn phản biện, muốn bình luận sẽ tạo ra những lời nghịch nhĩ và trở thành “người có vấn đề”.

Hậu quả là người ta lo nói năng an toàn, cầm giấy phát biểu theo những giáo điều, dần dần hình thành thói quen kết luận mà không chú ý tới lý lẽ thuyết phục, khiến nhiều người nghèo đi về ngôn từ và tư duy. Thế nhưng người ta vẫn có nhu cầu thể hiện mình qua ngôn ngữ. Vậy là sinh ra lối nói những câu hùng hồn dài dòng rỗng nghĩa. Người nói cố tỏ ra sang trọng với nhiều từ Hán-Việt dù không hiểu thật thấu đáo. Một thói quen quan cách, sẵn sàng lặp lại những điều đã biết, đã từng nói.

Biến tướng của lối nói dư thừa là lối nói “chuẩn” nhưng không có trích dẫn. Trải qua nhiều cuộc học tập nghị quyết, rèn luyện lập trường quan điểm, nâng cao ý thức chính trị, trong một số người đã hình thành thói quen tư duy thụ động và “nghệ thuật” nói năng an toàn: quan trọng nhất là phát biểu theo đúng quan điểm, đường lối mà không cần trích dẫn trực tiếp xuất xứ, vốn là điều tối kỵ với những người làm khoa học.



Vũ Ngọc Phan, đã bình luận về Nông Cổ Mín Đàm và Đại Việt Tân Báo như sau: “là những báo chí không có tính cách văn học, chỉ đăng rặt những tin vặt, những thông cáo  của Chính phủ, những bài diễn văn của người đương thời…” (Nhà văn hiện đại, quyển nhất, NXB Vĩnh Thịnh, Hà Nội, 1951). Những tài liệu nghiên cứu văn học sử và báo chí sau đó đã  theo ý kiến này mà cho rằng Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí mới là hai tờ báo đầu tiên góp phần  xây dựng nền văn học hiện đại.
Huỳnh Văn Tòng cũng viết : “Trước Đông Dương tạp chí có những tờ báo khác như Gia Định báo, Lục Tỉnh Tân Văn… Nhưng những tờ báo này thực ra chỉ có tính chất thông tin, văn chương còn luộm thuộm và hết sức đơn sơ.” (HVT, 2000, 123).
Nhưng những nhận định như vậy là vô tình bỏ qua những đóng góp của báo chí Nam bộ trong việc hình thành một thứ phong cách ngôn ngữ văn xuôi giản dị gần với khẩu ngữ, với những tác giả như Lê Hoằng Mưu, Trương Duy Toản, Tân Dân Tử, Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh, v.v, nhất là của Trương Vĩnh Ký.
 ------------
 Đối tượng của Gia Định báo là người Nam bộ và là những người bình dân  thì ngôn ngữ cũng phải là phương ngữ Nam bộ. Có vậy độc giả Nam bộ mới tiếp nhận được. Viết trơn tru như lời nói theo phương ngữ Nam bộ  thực sự trở thành  phong cách ngôn ngữ của GĐB, kể cả ở văn dịch. Số báo ngày đầu tháng chạp năm Tân Tỵ cách nay 130 năm, tức 20.01.1882, có một chuyện hài hước Tên Arabe đói, như sau:  “Có một tên Arabe kia, lạc bậy ở giữa đồng cát đói khát đà hai ngày rồi, biết mình chẳng kíp thì chầy không khỏi chết. Lúc đi qua gần một cái giếng, chợt thấy trên cát một cái bị nhỏ bằng da, nó vội vã lượm lấy cái bị ấy, tưởng là bị chà là. Lòng mầng lật đật mở ra. Mắt vừa ngó thấy đồ trong ấy thì vùng la khan lên rằng : “Thảm thay! Tinh những là ngọc mà thôi!”
Ở đoạn văn này, chỉ cần thay vài từ ngữ của phương ngữ Nam bộ và sửa những lỗi chính tả về dấu hỏi, ngã, v.v, chúng ta sẽ có một đoạn văn theo ngôn ngữ phổ thông hiện nay:  “Có một người Arabe lạc ở giữa đồng cát, đói khát đã hai ngày rồi, biết mình chẳng chóng thì chầy không (tránh) khỏi chết. Lúc đi qua gần một cái giếng, chợt thấy trên cát một cái bị nhỏ bằng da,  người đó vội vã lượm  cái bị ấy lên, tưởng là bị chà là. Lòng mừng lật đật mở ra. Mắt vừa nhìn thấy đồ trong ấy thì vùng kêu lên rằng: “Thảm thay! Toàn là những ngọc mà thôi!”
Từ ví dụ này có thể hình dung văn dịch từ 130 năm trước của Gia Định báo hầu như không mấy khác biệt so với ngôn ngữ hiện nay.

(Nguồn: Tia Sáng)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét