Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2019

SỰ TÍCH CÂY SUNG VÀ MỐI TÌNH KINH - THƯỢNG





 

Trước UBND Thành phố Kontum hiện nay, có một cây sung cổ thụ tàn lá to lớn, xanh đẹp sừng sững đứng trên vỉa hè bên ngoài hàng rào. Không rõ cây sung này có từ bao giờ, chỉ nhớ thời học sinh thường qua lại con đường Nguyễn Huệ, đã nhìn thấy cây sung thành ra thân quen. Vào mùa sung ra quả, chi chít quả xanh, nâu dắt díu trên cành, rồi quả đỏ chín thơm lựng rụng đầy vỉa hè…
Thân quen thành ra để ý tìm hiểu. Ngày xưa nơi khu vực này, gần đường Tố Hữu ngày nay, có một làng dân tộc Bahnar mang tên Kon H’ra (còn viết Hara). Người dân tộc thường hay đặt tên làng theo tên sông suối, cây cối…“H’ra” tiếng Bahnar có nghĩa là “Cây sung”, làng Kon H’ra có nghĩa là làng có nhiều cây sung. Cây sung là giống cây rừng hay sống gần sông nước, có nhiều công dụng như lấy gỗ; quả, lá, rễ…đều là vị thuốc chữa nhiều bệnh, đặc biệt vỏ cây có công dụng chữa bệnh sốt rét rừng. Người Bahnar hay gọi những vị già làng, những người lớn tuổi có uy tín trong làng một cách thân thương: “Cây sung đầu suối”.
Làng Kon H’ra này theo đạo Công giáo từ rất lâu, từ thời cha Do lên ở nhà thờ Tân Hương (1850). Dân làng H’ra cùng sống chung hòa bình với các làng kề cận như Plei Rơhai (vị trí gần Tỉnh đội đối diện trường PTTH Kontum bây giờ, làng Plei Don (trên đường Trần Phú đối diện đình Lương Khế)…và làng người Kinh Trại Lý, Gò Mít (Tân Hương bây giờ).v.v. Về mặt tôn giáo, Họ đạo Kon Hara trực thuộc Trung Tâm truyền giáo Rơhai (nhà thờ Tân Hương ngày nay).
Cây sung này chắc có lẽ không phải mọc ngẫu nhiên, mà phải là hậu duệ của rừng sung ngày xưa, nay bỗng trở nên đơn độc, cô lẻ đến nỗi không còn mấy ai nhớ đến gốc tích. Mà cũng phải, vì Làng Cây Sung (Kon H’ra) cũng đã di dời đi khỏi vị trí từ lâu.
Chuyện kể rằng…
Vào nửa cuối thế kỷ 17, khi người Kinh dưới đồng bằng lũ lượt kéo nhau lên định cư trên đất Kontum vì nhiều lý do: tìm kế sinh nhai, trốn tránh cơn bắt đạo của triều Nguyễn…đã làm cho cuộc sống vốn yên bình nơi đây bị xáo trộn. Người dân tộc hay có tục “chạy làng”. Làng Kon H’ra đã di dời làng sang bên kia sông Dak Bla, định cư nơi vị trí mới là làng Kon H’ra Kơtu hiện nay. (Về sau, năm 1931 [1], làng Plei Rơhai cũng dời làng qua bên kia sông ngay vị trí bây giờ; làng Plei Don cũng di dời đến vị trí ngày nay gần làng Phương Quí).  
Vào một năm nọ, trời đổ mưa lớn, sấm sét đã đánh cháy rụi ngôi Nhà Rông của làng. Quá kinh hãi! Dân làng tin rằng Yàng (Thần Linh, Chúa) đã không muốn mọi người bỏ đất cũ mà đi đến chỗ mới này. Dân làng họp lại. Có 2 anh em là 2 già làng uy tín. Người anh cùng một số lũ làng thì vẫn ở lại xây dựng nơi định cư mới; còn người em thì quyết tâm lên đường, với một vài gia đình, gồm thanh nam nữ tú quay trở lại làng cũ. Quay về tới nơi thì không thể nào lên được vị trí trước đây được nữa, họ đành phải dựng nhà lập làng bên dưới thung lũng cạnh bờ sông Dak Bla, đối diện nhà thờ Tân Hương bây giờ. Dân gọi tên làng là Kon H’ra chôt, nghĩa là Làng Kon H’ra Quay Lại (trong tiếng Bahnar, “chôt” có nghĩa là “trở về”, “quay lại chỗ cũ”). Vì vậy làng của người anh còn ở lại bên kia sông gọi là Kon H’ra Kơtu (Làng H’ra gốc, làng H’ra cũ). Sau năm 1975, do chính sách giãn dân, làng Kon H’ra Kơtu còn tách ra lập thành một làng mới nữa gọi là Kon H’ra Klăh (Klăh có nghĩa là tách ra).
Làng Kon H’ra chôt tách ra khỏi Kon H’ra Kơtu để quay về, đó là vào năm 1895 [2]. Sau 15 năm xây dựng, vào năm 1910, Kon Hara chốt trở thành họ đạo toàn tòng Công giáo, trực thuộc địa sở Rơhai (nhà thờ Tân Hương ngày nay) [3].
Đã gần 125 năm (1895-2019) xây dựng Kon H'ra chốt, từ bao thăng trầm đổi thay. Anh em Kinh và Dân tộc sống gần gũi yêu thương đùm bọc lẫn nhau từ thời xa xưa...
Cùng với đà phát triển mở rộng đô thị Kontum, Làng Kon H’ra chốt lại một lần nữa đứng trước nguy cơ phải di dời đi nơi khác. Đất canh tác màu mỡ gần lưu vực dọc sông Đak Bla từng nuôi sống dân làng từ bao đời, đã lần hồi bị thu hẹp và mất hẳn do mở đường giao thông (Trần Phú kéo dài) và chuyển đổi thành đất thổ cư…đã đẩy dân làng dần mất hết đất canh tác. Nghe đâu Làng Kon H’ra chốt cũng thuộc diện qui hoạch, nằm trong dự án phải di dời đi nơi khác!?
Dân Làng đã một lần vì mảnh đất quê hương và vì tình nghĩa Kinh-Thượng, quyết tâm quay trở lại, chấp nhận chịu biết bao nhiêu thiệt thòi, cùng chung lòng chung sức xây dựng thị xã - thành phố Kontum được tươi đẹp, an bình và giữ được bản sắc như ngày hôm nay…
Câu chuyện Cây Sung cổ thụ giờ đây đang trở thành câu chuyện cổ tích. Bởi nhờ có cây sung chứng tích này mà chúng ta ngày nay hiểu hơn tình nghĩa anh em Thượng-Kinh lâu đời, thật sâu nặng, thủy chung, trên mảnh đất Kontum yêu dấu này. 

 Bài và ảnh: LÊ MINH SƠN
(Ghi lại theo lời kể của các Già Làng Kon H'ra chôt năm 2006).
Kontum 10.06.2017
đến nay 30.07.2019
________________
[1], [2] và [3]: x. Echo Giáo phn Kontum 1948.



Cây Sung ngày 10.06.2017


Ngày 30.07.2019





   
-----------------------------



PHỎNG VẤN ĐỨC CHA ALOISIÔ NGUYỄN HÙNG VỊ VỀ MỤC VỤ



BAN MVTT GIÁO PHẬN KONTUM
PHỎNG VẤN ĐỨC CHA ALOISIÔ NGUYỄN HÙNG VỊ VỀ MỤC VỤ
Nhân dịp họp mặt Ban MVTT Giáo phận
Sáng nay ngày 29/7/2019, tại giáo xứ Võ Lâm giáo, giáo phận Kontum, ban Mục vụ Truyền thông phỏng vấn Đức Cha Aloisiô Nguyễn Hùng Vị tại “Phòng phim trường ảo”, do Cha Tađêô Võ Xuân Sơn trưởng ban Truyền thông thiết kế cùng với sáng kiến và sự cộng tác nhiệt tình của anh chị em trong ban.
Nội dung cuộc phỏng vấn xoay chủ đề Mục vụ của Giáo phận.
Đức Cha nói về đường hướng mục vụ:
 “Đào tạo nhân sự: có người chuyên trách, không kiêm nhiệm giáo xứ, cụ thể là chủng viện có 3 linh mục đồng hành toàn thời gian, Dòng Ảnh PhépLạ và Yao phu có 1 linh mục.
Cơ sở: đến thời điểm phải thực hiện thôi, như Tòa Giám Mục không đủ chỗ cho số các Cha ngày càng đông. Hay Măng Đen, vì đã được phép xây dựng thì phải làm.
Bác ái: Việc hy sinh Mùa Chay để xây dựng quỹ bác ái trong các giáo xứ, bớt gánh nặng cho ban Caritas giáo phận.Việc cấp cứu thì có các xe cứu thương”.
Đức Cha đề cao vai trò của các Linh mục trong giáo phận: “Nói chung, nếu có sự khởi sắc là nhờ các linh mục trẻ làm các trưởng Ban: năng nổ, có sáng kiến, biết huy động các thành viên cộng tác, làm việc chung với nhau”.
Bên cạnh việc quý mến công sức và thành quả của các Linh mục, Đức Cha đưa ra định hướng rõ nét cho từng ban ngành trong giáo phận, đặc biệt đặc biệt với quyết định ban hành “Qui chế hội đồng mục vụ giáo xứ của giáo phận Kontum”  và “Nội quy của Hội Đồng Mục Vụ Giáo xứ” được Đức Cha ký ngày 25/3/2019 và ngày 31/5/2019, đã đem lại cho ban chức việc nhiều niềm vui và xúc động. Đức Cha nói:
“Về Hội Đồng Mục Vụ giáo xứ: Sau mấy năm chờ đợi HĐGMVN đưa ra quy chế mà chưa thấy, nên cũng sốt ruột. Lại có 1 số Cha xứ cứ hỏi về thủ tục bầu cử và bổ nhiệm Ban Chức Việc ra sao. Cho nên tôi nghĩ mình cũng làm thử 1 quy chế cho giáo phận mình. Mình có chuyên viên về Giáo Luật, nên soạn quy chế theo giáo luật. Sau này nếu HĐGM có ra quy chế mới thì chắc cũng phải theo giáo luật thôi”.
Tâm tình của Đức Cha đối với giáo dân cùng với nỗi niềm khao khát mục tử:  “Kính thưa Đức Cha, chúng con rất cảm kích trước sự dấn thân của Đức Cha, trong suốt những tháng hè này, như chúng con được biết, hầu như ngày nào Đức Cha cũng đích thân đi ban phép thêm sức và thăm viếng từng giáo xứ để tâm tình của “mục tử và đoàn chiên có dịp gặp gỡ, gần gũi thân thiết hơn”, để ngang qua đó Đức Cha hiểu thêm về tình hình các giáo xứ cũng như tâm tư của giáo dân trong toàn giáo phận, vậy đâu là những thao thức của Đức Cha trong tình hình giáo phận Kon Tum hiện nay?”
Đức Cha: “Đi nhiều nơi trong giáo phận, tôi thấy rõ hơn điều Chúa nói: Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt. Tôi cũng thấy đa số các Cha, các tu sĩ nam nữ dù vất vả nhưng rất hăng say lo cho giáo xứ, giáo họ, giáo điểm. Nhiều người không ngại vượt qua xấu hổ để xin trợ giúp nơi này nơi kia nhằm lo cho việc có thêm quỹ đất để xây dựng nhà thờ, nhà xứ. Tôi cũng đau lòng khi thấy Tòa Giám Mục không có khả năng để hỗ trợ cho các Cha. Về nhân sự, nếu có thêm linh mục, thì các giáo họ sẽ phát triển mạnh hơn. Một linh mục phải kiêm nhiệm nhiều địa sở thì lực bất tòng tâm. Chúng ta phài cầu xin Chúa ban thêm nhiều thợ gặt và là thợ gặt có tâm huyết”.
Cha Tađêô Võ Xuân Sơn giới thiệu từng thành viên và công việc chuyên môn của từng người cho Đức Cha, có những gương mặt và những tên gọi mà Đức Cha rất quen và thêm một số gương mặt mới cũng rất chuyên nghiệp.
Tiếp đến, Đức Cha ban huấn từ cho ban Mục vụ Truyền thông: “Có những công việc, sự kiện của giáo phận, không thể nói riêng cho từng người được, nên phải dựa vào trang web, truyền thông. Ban truyền thông làm được càng nhiều, càng chi tiết, thì càng giúp ích cho nhiều người. Cha Tađêô Sơn biết nhiều về công nghệ thông tin, về trang mạng, nhưng ngài đi học làm linh mục, nên cần sự cộng tác của anh chị em là các chuyên viên truyền thông”. Buổi làm việc kết thúc trong niềm vui được “nhận thẻ thành viên ban Truyền thông, giá trị 1 năm” do cha Trưởng ban cấp, vui nhất là “Phòng phim trường ảo” hôm nay đi vào hoạt động do Đức Cha “khai trương”. Rồi từ đây sẽ mời các Linh mục chia sẻ Lời Chúa, mời các Sơ, các nghệ sĩ “cây nhà lá vườn” của giáo phận đến để chia sẻ niềm vui Tin Mừng.
Cát Vàng- Ngày 29/7/2019
Ban Mục Vụ Truyền Thông Giáo Phận Kontum
WGPKT(30/07/2019) KONTUM

Phỏng Vấn Đức Cha Aloisiô Nguyễn Hùng Vị – Giáo phận Kon Tum




WGPKT(29/07/2019) KONTUM
Nguồn: giaophankontum.com

NGÀY GIÁO LÝ VIÊN GIÁO PHẬN KON TUM 2019


Ngày Giáo Lý Viên Giáo Phận Kon Tum được Ban Giáo Lý - Thiếu Nhi tổ chức vào hai ngày 25-26/7/2019. Đây cũng là dịp mừng lễ Á Thánh Anrê Phú Yên, bổn mạng Giáo Lý Viên-Huynh Trưởng Giáo Phận. Với chủ đề: GIÁO LÝ VIÊN, CHỨNG NHÂN CỦA TÌNH YÊU, Ngày Giáo Lý Viên năm nay qui tụ 1.050 GLV-HT đến từ 62 giáo xứ trong khắp Giáo phận: Miền Kon Tum 30 giáo xứ, Miền Gia Lai 32 giáo xứ.
Đức Cha Aloisiô Nguyễn Hùng Vị, Giám mục Giáo phận khai mạc chương trình vào buổi chiều và dự buổi diễn nguyện buổi tối 25/7. Cha Tổng đại diện chủ tế thánh lễ ngày hôm sau 26/7 (thay mặt Đức Cha bận đi làm lễ ban phép Thêm Sức).
Nhân dịp này, vào cuối Thánh Lễ, Cha Trưởng Ban Giáo lý kiêm Tuyên úy Liên Đoàn TNTT Gp Kon Tum Đaminh Trần Văn Vũ cũng trao Giấy Bổ Nhiệm cho các Huynh Trưởng trong Ban Điều Hành Liên Đoàn và Hiệp Đoàn nhiệm kỳ mới 2019-2022.
Sau đây xin mời xem video và một số hình ảnh ngày Sinh hoạt và Thánh lễ, cũng như Chương trình chi tiết Ngày Giáo Lý Viên Gp Kon Tum.

Vui lầm bấm nút Play xem video:

Sinh Hoạt &Diễn Nguyện. Video: Ban MVTT GP Kon Tum

Thánh Lễ kính Thánh Anrê Phú Yên, mừng bổn mạng. Video: Ban MVTT GP Kon Tum

-----------------------------------

MỜI XEM THÊM MỘT SỐ HÌNH ẢNH
Vui lòng bấm vào links xem ảnh:



Ảnh : Minh Sơn

----------------------------------------------------------

Không có mô tả ảnh.
Không có mô tả ảnh.
Minh Sơn tổng hợp
Kontumquehuongtoi 28/7/2019

Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2019

Thánh Ca Chúa Nhật XVII Thường Niên C _ HÃY CẦU NGUYỆN_ Minh Sơn


Tin Mừng
Anh em cứ xin thì sẽ được.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
1 Một hôm, Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người : “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông.” 2 Người bảo các ông : “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói :
“Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,
Triều Đại Cha mau đến,

3xin Cha cho chúng con
ngày nào có lương thực ngày ấy ;

4xin tha tội cho chúng con,
vì chính chúng con cũng tha
cho mọi người mắc lỗi với chúng con,
và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.”
5 Người còn nói với các ông : “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói : ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, 6 vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’, 7 mà người kia từ trong nhà lại đáp : ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi : cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.’ ? 8 Thầy nói cho anh em biết : dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.
9 “Thế nên Thầy bảo anh em : anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. 10 Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. 11 Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ? 12 Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp ? 13 Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao ?”.


HÃY CẦU NGUYỆN_ Sáng tác: Lê Minh Sơn
Youtube: Võ Hữu Tri
Thể hiện: Ca đoàn Thánh Tâm, Giáo xứ Tân Hương, Kon Tum

Trong hình ảnh có thể có: văn bản
Trong hình ảnh có thể có: văn bản
Kontumquehuongtoi
Minh Sơn
28/7/2019

Thứ Năm, 25 tháng 7, 2019

Đêm Hoan Ca Tạ Ơn Mừng Khánh Thành Nhà Thờ Mới Giáo Xứ Klâu Rơngol 23/7/2019


Vào lúc 19 giờ ngày 23 tháng 7 năm 2019
tại tiền đường nhà thờ mới


Nguồn: giaophankontum.com

THÁNH LỄ CUNG HIẾN NHÀ THỜ GIÁO XỨ KLÂU RƠNGOL, GIÁO PHẬN KON TUM


Ngày 24/7/2019 là một ngày vui mừng trọng đại cho Giáo xứ Klâu Rơngol: ngày khánh thành và Cung hiến Nhà thờ mới, sau thời gian nỗ lực xây dựng.
Còn gì vui hơn, khi cộng đoàn Giáo xứ có sự hiện diện đầy thân thương của Đức Cha Aloisiô, Giám mục Giáo phận, quý Cha trong và ngoài Giáo phận, quý Tu sĩ nam nữ, quý khách đến từ nhiều nơi, hòa chung tâm tình tri ân Thiên Chúa với Giáo xứ, vì biết bao ân huệ và tình thương Chúa không ngừng tuôn đổ cho công trình xây dựng Nhà Chúa được hoàn thành như hôm nay.
XIN MỜI XEM TIẾP


Minh Sơn
26/7/2019




Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2019

NHỚ CHA TỔNG ĐẠI DIỆN GIUSE NGUYỄN THANH LIÊN


NHÂN LỄ GIỖ 8 NĂM (24/7/2011-24/7/2019)


Ngày 24.7.2019, lễ Giỗ 8 năm cố Linh mục Tổng đại diện Giuse Nguyễn Thanh Liên. Ngài qua đời vào lúc 7g15', Chúa nhật 24.7.2011, hưởng thọ 68 tuổi, với 40 năm Linh mục.
Xin Chúa thương đón nhận linh hồn cha Giuse vào hưởng tôn nhan Đấng Tối Cao, nơi đó ngài hằng cầu bầu cùng Chúa cho Giáo phận Kontum thân yêu, cho từng người Dân tộc Thượng cũng như Kinh mà khi còn sống ngài từng mến yêu, phục vụ.
Xin thành kính nhắc lại đôi dòng tiểu sử của ngài và một vài hình ảnh thân thương của ngài. 

Những hình ảnh thân thương của
cố Lm Giuse Nguyễn Thanh Liên, Lm Giáo phận Kontum 
(Mời bấm play)

Hình ảnh: từ Facebook Huong Nguyen
Thực hiện Slide: LMS

Cha Giuse Nguyễn Thanh Liên và Đức Cha Alexis Phạm Văn Lộc
dịp lễ Bạc 25 năm Linh mục 1996

-------------------------

ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ CỐ LM GIUSE NGUYỄN THANH LIÊN
Nguyên Tổng Đại Diện Giáo phận Kontum


Cha Giuse Nguyễn Thanh Liên sinh ngày 11.02.1943, tại Quế Võ,thuộc Gx. Xuân Hòa, Gp. Bắc Ninh. 
-1955-1958: Học Tiểu CV Thừa Sai Kontum.
-1959-1963: Học Tiểu CV Pi-ô XII, Hà Nội.
-1963-1967: Học Phân Khoa Triết học Kinh viện tại Giáo Hoàng Học Viện Pi-ô X, Đà Lạt.
-1967-1968: Đi thực tế tại trường Hưng Đức, Ban Mê Thuột.
-1968-1972: Học Phân khoa Thần học tại Giáo Hoàng Học Viện Pi-ô X, Đà Lạt
-18/12/1971 : Thụ phong linh mục, tại An Bình, Bàu Cá, Thống Nhất, Đồng Nai.
-1972-1975: Dạy học tại Chủng Viện Kontum, Dòng Chúa Cứu Thế Đà Lạt.
-1975-1978: Phụ trách trường Cuénot, Kontum.
-1978-15/04/2004: Chánh xứ Chính Tòa, kiêm nhiệm các xứ họ Hà Đông, Hà Tây, Ngọc Hồi, Đăk Tô, Đăk Glei.
-1997-1998: Bồi dưỡng Thần Học tại Institut Catholique, Paris.
-11/11/2003: Được bổ nhiệm làm Tổng Đại diện Giáo phận Kontum.
-01/06/2006: Chánh xứ Đăk Mót, cùng các xứ họ Dân tộc và Kinh thuộc huyện Ngọc Hồi và Đăk Glei, Kontum. 
Sau thời gian bệnh nặng, Cha đã an nghỉ trong Chúa lúc 7 giờ 15, Chúa Nhật 24 tháng 07 năm 2011. Hưởng thọ 68 tuổi, với 40 năm linh mục.
Thánh lễ An táng vào lúc 06 giờ 00, thứ Ba 26.07.2011, tại Nhà thờ Chính Tòa Kontum.
Cha Giuse Nguyễn Thanh Liên được an táng tại Nghĩa Trang giáo xứ Phương Quý, Kontum.

Thánh Lễ An Tang Cha cố Giuse Liên
tại Nhà thờ Chính tòa Kontum lúc 06giờ ngày 26/07/2011

Trong hình ảnh có thể có: 1 người, bầu trời, thực vật và ngoài trời

Trong hình ảnh có thể có: mọi người đang đứng, bầu trời, đám mây, cây, thực vật, cỏ, ngoài trời và thiên nhiên

Trong hình ảnh có thể có: bầu trời, đám mây, thực vật và ngoài trời
Nơi an nghỉ cuối cùng tại Nghĩa trang Gx Phương Quý, Kontum

------------------------------------
MINH SƠN 21.7.2019

Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2019

ĐÔI NÉT LỊCH SỬ GIÁO XỨ KLÂU RƠNGOL



Ngày 24/7/2019, cộng đoàn giáo xứ Klâu Rơngol hân hoan chào đón Đức Cha Aloisiô Nguyễn Hùng Vị, Giám mục giáo phận đến chủ tế Thánh Lễ Cung Hiến Nhà Thờ, Làm Phép Tháp Chuông và Làm Phép Nhà Xứ...
Xin tạ ơn Chúa! Tạ ơn Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
 Và chúng ta cùng nhìn lại hành trình đức tin của giáo xứ hơn 100 năm qua, để biết ơn các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ, giáo dân Thượng-Kinh, các ân thân nhân đã góp công góp sức khai phá và gieo trồng trong vô vàn gian lao thử thách, với bao mồ hôi nước mắt, để giáo xứ Klâu Rơngol có được như ngày hôm nay, để rồi cùng nhau quyết tâm lên đường tiếp bước tiền nhân, sống và loan báo Tin Mừng tình thương của Chúa cho mọi người.
“Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
ngợi khen Người trong cộng đoàn những kẻ hiếu trung!”

                                                              (Tv 149,1)
Xin mời 
Nguồn bài viết :


Minh Sơn
Kontumquehuongtoi
13/7/2019




Thứ Năm, 4 tháng 7, 2019

NGƯỜI CHỨNG THỨ NHẤT - Tác giả : Phạm Đình Khiêm



Hướng tới Ngày Truyền Thống Giáo Lý Viên Giáo Phận Kon Tum & 
Mừng Lễ Thánh Anrê Phú Yên  25-26/7/2019.
Chủ đề: "Giáo Lý Viên - chứng nhân của tình yêu".
Xin trân trọng giới thiệu tác phẩm: NGƯỜI CHỨNG THỨ NHẤT của 
tác giả Phạm Đình Khiêm.

--------------------------




NGƯỜI CHỨNG THỨ NHẤT

Tác giả Phạm Đình Khiêm

Lời nói đầu

Anre PhuYen 1Trong quá trình sinh hoạt của dân tộc Việt Nam, nếu có một nhân vật nào, ngay sau khi từ trần, đã được người đời viết sách ca tụng bằng nhiều thứ tiếng, xuất bản ở nhiều thủ đô lớn trên thế giới, làm vẻ vang chung cho cả dân tộc trên lãnh vực tinh thần, đạo đức và dũng cảm, người ấy chính là vị anh hùng trẻ tuổi mà chúng tôi sắp họa lại chân dung trong cuốn sách này: THẦY GIẢNG ANRÊ PHÚ YÊN, tiên khởi tử đạo miền Nam, nói riêng, và cũng đáng gọi là tiên khởi tử đạo Việt Nam, nói chung.
Ông sống vào đầu thế kỷ XVII, lúc Việt Nam vươn mình ra ngoài vòng ảnh hưởng truyền thống của Trung Hoa, và bắt đầu tiếp xúc với văn hóa Tây phương.
Lúc ông cất tiếng khóc chào đời, trên bờ sông Cái Phú Yên, năm 1625, thì đạo Công giáo mới truyền bá vào nước ta được mười năm, chưa có kết quả bao nhiêu. Năm mười sáu tuổi, ông được chịu phép rửa tội do tay giáo sĩ Alexandre de Rhodes – phiên âm tắt là Đắc Lộ. Hai năm sau ông dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa, quyết chí tu hành, luyện tập nhân đức và làm thầy giảng truyền bá Phúc Am. Không tiếc cuộc sống giữa mười chín tuổi xuân, năm 1644, ông đổ máu cách anh dũng và thánh thiện để làm chứng cho chân lý và bảo vệ quyền thiêng liêng tự do tín ngưỡng.
Cuộc tử đạo này, lần thứ nhất xảy ra ở xứ Nam, đã gây nên một xúc động mạnh mẽ giữa đồng bào lương cũng như giáo, và các giới giáo sĩ, thương gia ngoại quốc. Kết thúc một cuộc sống ngắn ngủi nhưng nhân đức phi thường, cái chết anh dũng ấy lại càng nổi bật lên vì những phép lạ lớn lao liên tiếp xảy ra tại Quảng Nam, nơi ông thọ hình, tại Ao môn (Macao), nơi ông gởi xác, trên mặt biển Thái Bình Dương, và cả bên trời Au nữa.
Ngay tức khắc, tòa Giám mục Ao môn, lúc ấy phụ trách việc truyền giáo cả mấy nước lân cận, quyết định mở cuộc điều tra theo luật Hội thánh (1644-1645), lấy lời cung khai của 23 thương gia và thủy thủ Bồ Đào Nha đã chứng kiến hoặc nghe biết cuộc tử đạo, rồi gởi hồ sơ về La Mã để xin phong thánh cho vị tử đạo đầu tiên Việt Nam.
Bốn năm sau (1649), từ Goa (An Độ thuộc Bồ), cha quản lý Dòng Tên tỉnh hạt Nhật Bản Mathias da Maya, sau khi thu thập các tin tức từ Ao môn và Việt Nam, đã lập một bản tường trình đầy đủ bằng tiếng Bồ Đào Nha, gởi về cha Bề trên Cả dòng Tên ở La Mã, báo cáo việc thầy giảng Anrê tử đạo năm 1644, và hai thầy khác tử đạo năm 1645.
Về phần giáo sĩ Alexandre de Rhodes, ông đã trước tác riêng hai cuốn sách bằng tiếng Ý (1652) và tiếng Pháp (1653) để giới thiệu với thế giới, nhân đức thánh thiện của vị anh hùng tín ngưỡng người Việt.
Ngoài ra trong nhiều cuốn ký sự, giáo sĩ Đắc Lộ cũng dành nhiều trang nói đến vị tử đạo Anrê Phú Yên, với một lòng mến yêu và cảm phục vô cùng.
Sau đó lịch sử cuộc tử đạo của thầy giảng Phú Yên lại được viết tường tận trong một tác phẩm của Emmanuel Perreyra, bằng tiếng Bồ Đào Nha, in năm 1700 tại Lisbonne, một thủ đô quan trọng bậc nhất Au Châu thời ấy.
Như vậy là trong thế kỷ XVII- XVIII uy đức của vị tuẫn giáo đầu tiên Việt Nam đã lừng lẫy khắp Tây phương.
Qua thế kỷ XIX, đến lượt một nhà trước tác Việt Nam viết truyện thầy giảng Anrê Phú Yên bằng chữ “Quốc ngữ” – lối quốc ngữ cổ lưu truyền từ đời cha Đắc Lộ. Đó là linh mục Philipphê Bỉnh, dòng Tên, với tác phẩm nhan đề: Truyện nước Annam Đàng Trong, soạn tại Lisbonne năm 1822. Trong sách này tác giả dành ba chương để tuờng thuật tiểu sử vị tử đạo tiên khởi Việt Nam, với dụng ý – theo ông nói – chẳng những cho kẻ hậu sinh được biết, mà cho cả những người kim thời nữa, vì người ta ít nhớ đến việc đời trước. Tiếc thay cuốn sách đó không hề được xuất bản. Nhưng bản cảo còn lưu lại, là một tài liệu quý giá.
Qua đầu thế kỷ XX, một bản Đại cương (Summarium) liên hệ đến vụ án phong thánh cho nhiều vị tử đạo trong đó có thầy giảng Anrê Phú Yên, được ấn hành để chính thức đệ trình vụ án. Tiếp đó lại có một bản Lược trình (Informatio) đề ngày 17 tháng 12 năm 1901, tóm lại bản “Đại Cương” và yêu cầu xét xử vụ án.
Xem thế đủ rõ, thầy giảng Anrê Phú Yên là một nhân vật lẫy lừng, được ghi vào lịch sử bằng những tài liệu giá trị và đầy đủ hiếm có.
§
Nhưng… thời gian qua. Bao nhiêu tài liệu quý hóa kia bị chôn vùi trong quên lãng. Mặc dầu tên tuổi thầy giảng Anrê còn được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến việc truyền giáo ở Việt Nam, nhưng không ai hiểu rõ cuộc đời ông ra sao, tính hạnh ông thế nào, đến quê quán và các nơi hoạt động của ông xưa kia, người ta lại càng không biết nữa. Chính tác giả, khi viết cuốn “Minh Đức Vương Thái phi” đã có ý tìm tòi, cũng chỉ thu lượm được những tài liệu rất sơ sài, đủ viết bốn trang ngắn ngủi. Bất ngờ ngay sau khi cuốn sách ấy vừa ra khỏi nhà in, một vị linh mục mới du học Au Châu về được ít lâu, nhân đọc cuốn sách nói trên, đã mau mắn đến tìm tôi trong tận cùng ngõ hẻm quanh co, để trao tận tay một tài liệu quý giá: Cuốn ký sự của cha Đắc Lộ về “Cuộc tử đạo oanh liệt của thầy giảng Anrê”, bằng tiếng Pháp in năm 1653, hiện nay cực kỳ hiếm hoi. Tôi rất xúc động khi nhận tài liệu ấy.
Thoạt đầu tôi tưởng chỉ dịch nguyên văn tài liệu ấy, đủ giới thiệu thầy giảng Anrê với đồng bào, nhưng sau khi đọc xong, tôi thấy rất nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu thêm để làm sáng tỏ cuộc đời vị Anh hùng trong khung cảnh lịch sử đất nước. Vì thế tôi vùi đầu vào công cuộc tra cứu. Hàng trăm trang thư từ và phiếu tra cứu được gởi đi nhiều nơi trong nước và ngoại quốc: La Mã, Ba Lê, Ao Môn, Lịch Bôn (Lisbonne). Sau mười tháng nhẫn nại tìm tòi, tôi đã may mắn thâu thập được đủ hết các tài liệu quý giá và hiếm hoi, liên hệ trực tiếp đến lịch sử vị tử đạo Phú Yên, kể cả bản “Đại cương” vụ án phong thánh ghi những lời kê khai quan trọng nhất của 23 người Bồ Đào Nha (tài liệu này nhận được bằng phim ảnh).
Ngoài các tài liệu, tôi lại được cha J.B.Janssens, Bề trên cả Dòng Đức Chúa Giêsu, trong thư đề ngày 19 tháng giêng d.l.1958, kèm với nhiều hình ảnh, xác nhận đầu vị tử đạo Anrê Phú Yên hiện còn giữ và tôn kính tại tòa Bề trên cả Dòng Tên, số 5 Borgo Santo Spirito, Roma.
Từ Ao môn, tôi được tin hài cốt của vị tử đạo Anrê Phú Yên hiện giữ tại nhà thờ chính tòa Giám mục sở tại. Đặc biệt hơn nữa: một sợi tóc của vị tử đạo đáng kính từ La Mã đã bay về quê tổ sau ba trăm năm xa cách! Chỉ một sợi tóc – không quá năm phân – nhưng tôi đã lĩnh nhận với một lòng thành kính và xúc động vô cùng, khác nào như được đón rước vị anh hùng đích thân đến cùng tôi, trong cảnh tầm thường của tôi, để giúp tôi nhìn nhận rõ hơn chân dung sáng lạn của Người!
Người đã về Quê Hương, nhưng Quê Hương chưa nhận biết Người: chưa ai biết đích xác Người sinh ở chỗ nào, hoạt động trên những nẻo đường nào, và đổ máu vinh quang trên chiến trường nào. Vì sử liệu Tây phương chỉ cốt ghi các sự kiến mà không để ý đến các chi tiết về địa lý, hay nói cho cùng đúng chỉ ghi “Ranran” là tỉnh quê hương và “Caciam” là nơi tử đạo.
Nhưng một ngày kia, ôm sợi tóc quý giá trong mình, với một mớ bản đồ cổ kim và một tập hồ sơ sử địa, tôi đã lên đường về miền Trung, vừa khảo sát vừa hành hương kính viếng. Nhờ khám phá được địa điểm và di tích dinh Trấn Biên xưa do chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên lập năm 1629, tôi đã nhận định được đích xác nơi người sinh trưởng và tái sinh trong phép Rửa tội, nay thuộc địa sở Mằng Lăng, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên, với ngôi thánh đường nguy nga nhất trong mấy tỉnh Nam Trung.
Từ Tuy An, tôi đã ngược lên phía Bắc, theo đường quốc lộ số 1, qua Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, lên đến Thừa Thiên, Quảng Trị: tôi đã đi theo lộ trình quen thuộc của thầy giảng Anrê, xưa đã đặt dấu chân truyền giáo trên khắp các tỉnh ấy. Tôi đã viếng thăm Hôi An, nơi Người bị bắt vì đức tin. Và sau khi tìm thấy địa điểm và các di tích dinh trấn thủ Quảng Nam do chúa Nguyễn Hoàng xây năm 1602, nay là thôn Thanh Chiêm, xã Vĩnh Thọ, quận Điện Bàn, tôi đã kính viếng mảnh đất người bị giam giữ vì đức tin, và cả chính cho người đổ máu làm chứng cho Chúa.
§
Đến đây, việc tra cứu đã hoàn tất, việc xây dựng lịch sử bắt đầu. Chúng tôi xin thưa trước, mặc dầu sử liệu dồi dào, và khảo cứu công phu, cuộc đời vị tử đạo Anrê vẫn còn một vài khía cạnh chưa sáng tỏ, như vấn đề dòng họ, hoàn cảnh những năm thơ trẻ, và nhất là tính danh riêng của nhà tử đạo. Về điểm nay, ta cần hiểu rằng, trong buổi đầu truyền giáo, các giáo sĩ ngoại quốc thường hay gọi các giáo hữu nhất là các thầy giảng bằng tên thánh và trong các ký sự để lại, khi nói đến các giáo hữu ấy cũng chỉ kể tên thánh mà không ghi tên họ thông thường. Còn như sử liệu của người công giáo Việt Nam về thời kỳ ấy, hầu như không có gì lưu lại, mà dẫu có chăng nữa, những cuộc bách hại tôn giáo trong hai thế kỷ cũng không để cho tồn tại với thời gian. Vì lẽ ấy, ta không dễ gì tìm lại được tính danh các giáo hữu buổi đầu, trừ một vài trường hợp đặc biệt như bà Vương phi Maria, mà ta biết là Minh Đức Vương thái phi, nhờ ngọc điệp có ghi tước hiệu ấy.
Về trường hợp của thầy giảng Anrê, chúng ta cũng chẳng nên quá thắc mắc không tìm được tính danh thế tục của ông, vì ông đã thoát ly thế tục để dâng mình cho Chúa trong bậc tu hành rồi. Tên thánh Anrê, bổn mạng của ông, đã trở nên tên thật của ông, vì sinh thời mọi người đều biết và gọi ông như vậy. Trong lịch sử, nhiều nhân vật cũng chỉ lưu lại tước hiệu hoặc bí danh, chứ không phải tính danh đích thực. Và ngay ngày nay, cũng có nhiều tu sĩ bỏ tên riêng mình để chỉ mang tên vị thánh bổn mạng mà thôi, hoặc nếu là nhà tu hành Phật giáo, thì mang “pháp danh” thay cho tục danh.
Tuy nhiên, để làm vinh hạnh cho quê hương đã sản xuất vị anh hùng, và để dễ phân biệt, trong sách này, chúng tôi gọi ông bằng danh hiệu ANRÊ PHÚ YÊN, nghĩa là lấy quê hương ông mà đặt tên cho ông, theo một truyền thống đặc biệt Việt Nam, như ta quen gọi: ông Tam Nguyên Yên Đỗ, bà Huyện Thanh Quan, Thi sĩ Tản Đà v.v… 1
Ở đây, chúng tôi tưởng cũng nên nhận định rõ về tước hiệu “Tiên khởi tử đạo Việt Nam” dành cho ông Anrê Phú Yên. Đúng ra, thầy giảng Anrê là “Tiên khởi tử đạo ở xứ Nam (Đàng Trong). Còn nếu kể toàn quốc, thì ở xứ Bắc (Đàng Ngoài), vào năm 1630, có một giáo hữu tên thánh là Phanxicô, gia nhân của một vị quan lớn trong phủ chúa Trịnh, đã bị quan này tự ý giết vì giữ đạo Thiên Chúa. Tài liệu của cha Đắc Lộ, nguồn duy nhất, chỉ kể rất sơ lược về ông, khen ngợi ông đổ máu vì Chúa, tuy không dùng danh từ rõ rệt “Tử đạo” (Martyr). Về phần giảng Anrê Phú Yên, đời sống và cuộc “tử đạo” với những phép lạ sau khi chết, đã biểu dương rất rõ rệt với đầy đủ chi tiết, lại được lập hồ sơ để chờ ngày phong thánh, cho nên ta cũng có thể kể người như vị tử đạo vinh quang đầu tiên của Việt Nam.
Nhận định rằng tài liệu dẫu dồi dào, nhưng nếu khai thác không có phương pháp, thì công việc xây dựng lịch sử không có bảo đảm. Vì vậy chúng tôi hết sức thận trọng trong việc nghiên cứu và đối chiếu các tài liệu, hết sức khách quan trong việc phê bình phân tích, và suy luận phải hợp tình, hợp lý.
Ap dụng phương pháp khoa học trong sự tìm tòi và đường lối nghệ thuật trong cách xây dựng, chúng tôi mong ước vị anh hùng sẽ sống lại trước mắt bạn đọc, trong bối cảnh lịch sử của thời đại người, với những rung động, cảm nghĩ, khát vọng của người, từ chỗ thâm sâu nhất của tâm hồn phát xuất ra hành động.
Với tất cả lòng thành kính, chúng tôi dâng sách này trước đài kỷ niệm 130.000 vị tử đạo Việt Nam trong ba thế kỷ: Thầy giảng Anrê Phú Yên chẳng những là người đã mở đầu dòng dõi oai hùng ấy (protomartyr), mà còn là vị tử đạo điển hình của Giáo hội Việt Nam.
Chúng tôi trân trọng cống hiến sách này cho toàn thể đồng bào, không phân lương giáo: Vị tử đạo Anrê, trước khi là tín hữu và tử đạo, đã và vẫn mãi mãi là người Việt, mà tín ngưỡng Công giáo đã đặt lên đài vinh quang, với những nhân đức làm vinh dự chung cho cả giống nòi.
Và bởi vì Anrê Phú Yên là bông hoa hàm tiếu của vườn xuân, làm sao tôi có thể quên không gởi những trang chân thành này đến các bạn thanh niên nam nữ ở giữa dòng đời cũng như nơi tu viện, đang tha thiết sống và yêu?
… Thì đây, cuốn sử của một thanh niên đã sống và đã yêu – yêu tuyệt đối để sống muôn đời!
Phạm Đình Khiêm
_______________________________

Chú thích
(1) Trong bài Iconographie du Père Alexandre de Rhodes (trong B.A.V.H 1938, tr.27-61) cha Cadière có đăng một bức thơ của Tòa giám mục Macao, gởi cho tác giả. Nhân nói đến thầy giảng Anrê, trong thơ có chỗ viết:  “André (Ly)”. Hai dấu ngoặc đơn bọc lấy chữ Ly chắc là của cha Cadière thêm vào vì không nhận tên thầy giảng Anrê là Ly hay Lý. Thực ra, Trung Hoa có một vị tử đạo rất thời danh là linh mục André Ly (1692-1775). Tác giả bức thư, khi nói đến vị tử đạo Anrê của Việt Nam đã viết “André Ly”, có lẽ vì nhớ lẫn với André Ly Trung Hoa. Trong cuốn Histoire des Persécutions au Việt Nam (Paris, 1955), tác giả, ông Trần Minh Tiết, kể tên vị tử đạo đầu tiên năm 1644, là André Trung (tr.39, 41).
Chúng tôi có viết thư hỏi tác giả lấy nguồn nào đưa ra tên ấy, xin chỉ giáo cho, song không được trả lời (hoặc giả thơ tôi không tới tác giả). Chúng tôi nghĩ có lẽ tác giả đã lẫn thầy giảng Anrê tử đạo ở Phú Yên 1644, với thầygiảng Anrê Trống (tác giả chép là Thông) tử đạo ở Huế năm 1835 (tr.111) hoặc linh mục Anrê Trung, tử đạo ở Đồng Hới cũng năm 1835 (tr.90).
Tiếp tục tra cứu mãi đến khi sắp giao bản thảo cho nhà in, chúng tôi đã tưởng tìm được tên riêng Việt Nam của thầy giảng Anrê trong tài liệu viết tay bằng tiếng Bồ Đào Nha (Relacao da gloriose morte…) của giáo sĩ Mathius da Maya ở Goa, báo cáo về cuộc tử đạo của mấy thầy giảng Việt Nam đầu tiên. Tiếc thay tác giả chỉ cho biết tên ông trùm trưởng Anrê già, cùng bị bắt và bị giam chung với thầy giảng “Anrê trẻ”. Tên ông Anrê già ấy được phiên âm là “Sen” chắc hẳn do chữ “Sơn”, vì tên đàn ông nhất là ở miền Trung Bắc ít khi dùng các chữ “Sen”, “Son” và không thể là “Sên”. Đó là cơ hội chót hết để tìm tên riêng thầy giảng Anrê mà không được.
__________________________________
Xin mời đọc trọn tác phẩm theo link dưới đây:
MỜI BẤM VÀO
Kontumquehuongtoi
sưu tầm, giới thiệu