Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

Thăm Nhà Thờ Chính Toà và Chủng Viện Thừa Sai Kon Tum


LỊCH SỬ LÀ GÌ?





Kim Oanh
  
Mt s khái nim lch s

Khi nói đến lch s, theo gii thích đơn gin, lch s là nhng gì thuc v quá kh và gn lin vi xã hi loài người. Vi ý này, lch s bao trùm tt c mi lĩnh vc trong xã hi, đa din do đó khó đnh nghĩa chính xác và đy đ. Vì thế, đnh nghĩa v lch s được rt nhiu nhà nghiên cu đưa ra.

Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2012

Tín ngưỡng dân gian trong chiếc ghè cổ của các dân tộc thiểu số Kon Tum






Trong những lễ hội của người dân tộc thiểu số, nét đặc trưng và phổ biến đó là luôn hiện hữu hình ảnh của ché rượu cần, còn gọi là rượu ghè (jrăm). Nó không chỉ là loại đồ uống thuần túy trong các cuộc vui mà còn ẩn chứa nhiều tín ngưỡng tâm linh trong mỗi tộc người bản địa, ở đây chúng ta nói đến các loại ghè dùng để ủ rượu mà theo người dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung và đồng bào 6 dân tộc thiểu số Kon Tum nói riêng nó mang một ý nghĩa quan trọng nhất định.

Trước tiên phải tìm hiểu về nguồn gốc, xuất xứ của những chiếc ghè rượu, ngày nay nếu cần ta có thể dễ dàng mua một chiếc ghè gốm bất cứ ở đâu ngoài thị trường có rất nhiều kích cỡ khác nhau để lựa chọn. Tuy nhiên những chiếc ghè cổ của người dân tộc thiểu số lại là một chuyện khác, nó tiềm ẩn giá trị tinh thần rất riêng biệt trong mỗi cộng đồng dân tộc, họ phải mất hàng chục con trâu để đổi lấy chúng từ những thương buôn vùng Châu thổ Miền Trung và cả Miền Nam từ những thế kỷ trước.
 
Cách đây hàng trăm năm khi vùng rừng núi Tây Nguyên đang còn hoang sơ, người dân tộc thiểu số đa phần sống bằng nghề săn bắt hái lượm, sinh hoạt bằng những gì sẵn có trong tự nhiên, rượu họ tự chế ra một loại men từ rễ một loại cây dạng dây leo (Rĩ Blô) được đào trong rừng, dùng củ mì để ủ nhưng lại không làm ra được dụng cụ để lưu giữ lâu dài, chỉ đơn giản là những cái nồi đất thô tự nung hoặc bằng ống thân cây lồ ô, việc bảo quản rất khó khăn nhưng lại đựng được quá ít. Tìm hiểu tâm lý và hoàn cảnh đó, những thương buôn miền xuôi người Kinh (cụ thể thời kỳ bấy giờ đa số ghè gốm được vận chuyển từ vùng Châu Ổ, Mỹ Thiện của Quảng Ngãi và gốm Quảng Đức khu vực Phú Yên xưa, một số ít là ghè sành Bình Định, sau này vì đường sá đi lại khó khăn, gốm Miền Trung ít dần, các già làng lại chuyển qua trao đổi với thương buôn vùng Lái Thiêu, Nam Bộ từ phía Nam), họ đã vận chuyển một số đồ gốm lên Tây Nguyên, đem trâu bò về xuôi để cày ruộng, ngược lại người dân bản địa có những dụng cụ hằng mơ ước đựng được mọi thứ, vừa để ủ rượu, đựng thịt rừng vừa là vật sang trọng cúng thần linh (Yàng) trong các lễ hội... 
 
 
Qua thời gian những chiếc ghè được cải biến thêm theo yêu cầu đặt hàng của người dùng mà ở đây chủ yếu là các già làng và các tộc trưởng giàu có, từ đó ghè trở thành một thứ vô cùng quý giá đối với người dân Tây Nguyên, nó trở thành một vật linh thiêng trong các lễ hội, là phần thưởng quý giá cho những ai săn được nhiều con thú nhất, người cao quý được uống rượu trong những chiếc ghè đẹp nhất, những gia đình nào lưu trữ được nhiều ghè trong nhà càng thể hiện được sự sung túc, sức mạnh của dòng tộc và là vật níu kéo được thần linh lâu hơn trong nhà mình, bảo vệ mình trải qua được sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Người nghèo có ít trâu bò chỉ đổi được những cái ghè sành thông thường, còn gia đình khá giả lại có những chiếc ghè tráng men đủ màu sắc, có hoa văn cây cỏ, có hình tượng đặc trưng theo ý muốn. Giống như một nghệ nhân thổi hồn vào một tác phẩm nghệ thuật nào đó, cái ghè cũng như vậy, đối với người dân tộc thiểu số nó là biểu tượng của sự mạnh mẽ, nó làm cho con người “say” trong mỗi cuộc vui, làm vơi đi nỗi buồn, bớt đi sự nhọc nhằn trong cuộc sống..., chiếc ghè trở thành một vật quan trọng tột bậc. Khi ai đó đã sở hữu được những vật dụng quan trọng như vậy, những người khá giả từ những làng xa xôi hẻo lánh muốn sở hữu được nó họ lại đem những tài sản quý giá khác tìm cách để đổi lấy, từ đó giá trị của chiếc ghè càng tăng lên gấp bội, bởi vậy có những chiếc ghè người ta có thể đổi ngang từ 50 đến 60 con trâu là điều dễ hiểu.
 
 
Khi xã hội làng bản phát triển dần lên, người người dân tộc thiểu số bắt đầu phân loại cho ghè để dùng vào nhiều mục đích khác nhau, họ lựa chọn và đặt tên cho từng chiếc ghè. Những chiếc ghè cúng thần linh là những ghè quý hiếm, thường có hình tượng của con giao long, con hạc đắp nổi hay hình tượng chim muông cây lá trên thân hoặc hình hổ phù ở tai, ghè này người Ba Na thường gọi là Rănglau, ghè Runh hay ghè Chơ Brông...Người Xơ Đăng gọi là K’reng, K’loang, K’năng hoặc Xoantroeng. Loại ghè này người đồng bào xem như là “thần thánh”, có một truyền thuyết trong cộng đồng người dân tộc thiểu số Kon Tum rằng, trong một lần hỏa hoạn lớn, cả buôn làng đều bị thiêu rụi, riêng chiếc ghè rượu (K’năng) tự chui ra ngoài mà không bị lửa đốt... (ghè loại này đa phần là gốm Lái Thiêu vùng Nam Bộ xưa, chiều cao thường 50-60cm, đường kính bụng khoảng 35-45cm, có nhiều hoa văn đa dạng, lớp men được cải biến sặc sỡ hơn gốm Châu Ổ và gốm Quảng Đức).
 
Quan niệm rằng kính dâng lên Giàng những chiếc ghè đặc biệt như vậy, Giàng sẽ phù hộ cho mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hòa, tránh được thú dữ đến phá làng bản. Ghè rượu uống mừng trong những dịp hội làng thường rất lớn, cao 60-70cm, đường kính bụng thường 50-55cm, riêng ghè uống cho những gia đình mới, các dịp năm mới hay trong làng có sự kiện mới, uống như để tạ ơn thần linh (et Hơ’tok) họ có loại ghèHơ’tok, một loại ghè quý hiếm rất ít hoa văn và bất cứ ai cũng có thể uống như là để thể hiện lòng biết ơn của mình. Có một chi tiết khá thú vị đó là đa số chiếc ghè dùng để ủ rượu thường được trang trí bằng nhiều chấm bi đắp nổi như những chuỗi hạt kết thành nhiều tầng, tưởng vô tình nhưng thực chất đã được sắp đặt do yêu cầu đặt hàng của người xưa thể hiện một sự đoàn kết trong cộng đồng, mỗi chấm bi tượng trưng cho mỗi cá thể đang quây quần bên nhau, xếp thành nhiều lớp có ý nghĩa tiếp nối, cuộc vui sẽ luôn bất tận...
 
Vào những dịp trai làng săn được những con thú trong rừng trở về, họ quây quần bên bếp lửa và được thưởng thức “cang” rượu trong chiếc ghè có tai đắp hình những con thú rừng như chuột, sóc, ếch hay con kỳ nhông.. rất sống động (ghè Xoan K’nai hay Tơngong K’rê của Xơ Đăng, loại này có nguồn gốc thuộc gốm Quảng Đức và một số là gốm Châu Ổ), theo phong tục ngày trước cho rằng khi được uống những “cang”rượu trong chiếc ghè này họ sẽ có được sự nhanh nhẹn dẻo dai hơn trong lần kế tiếp. Một loại ghè khác thường được đem theo trong những buổi đi săn thú lớn (ghè Hakeng), kích thước nhỏ gọn, chỉ cao 22cm, để vừa trong một chiếc gùi nhỏ. Ghè này rất đặc biệt ở chỗ chỉ uống tượng trưng khi đã săn được một con thú dữ trong rừng, nó mang đậm nét tâm linh trong suy nghĩ của mỗi thợ săn chuyên nghiệp, theo họ tất cả muôn thú vạn vật đều là của một vị thần cai quản, bắt được thú chính là được thần linh thương xót phù hộ và ban cho, nên phải có lễ để cảm tạ. 
 
 
Có những cặp ghè gọi là “ghè vợ chồng” thường có một đôi, kiểu dáng, hoa văn giống hệt nhau chỉ khác ở kích thước cao thấp, khi để gần, màu sắc bỗng nhiên thay đổi, lúc cưới (bắt) chồng, cô dâu và chú rể sẽ uống với nhau, mỗi người một ghè, thể hiện sự đẹp đôi và như lời nhắn gửi với gia đình là sẵn sàng sánh vai nhau, hạnh phúc bên nhau dù cho có xảy ra bất cứ hoàn cảnh nào đi chăng nữa.. (phong tục của Xơ Đăng). Hoặc những cặp ghè có đắp nổi hình con thạch sùng, khi để sát lại nhìn như con vật phía sau đang cắn đuôi con trước trông rất độc đáo,...rượu được ủ bằng ghè này thường uống trong các dịp đính ước, một loại ghè nữa cũng có tai đắp hình con thạch sùng nhưng lại đang ưỡn cong lên. Loài côn trùng này rất gần gũi với mọi gia đình, theo tìm hiểu khi đến mùa giao phối, con cái và con đực gặp nhau thường cong thân lên, tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở của giống nòi, uống rượu ở ghè này sẽ có con cháu đầy đàn...
 
 
Một loại ghè được cho là đặc biệt quý đó là “ghè mẹ bồng con” (Pô kuôn pei tơ của Xê Đăng và Van jơ ron kun pul của dân tộc B’râu), ghè này có dáng thon và nhỏ, màu phổ biến nhất là màu da lươn chất liệu gốm nguyên bản đen bóng không tráng men (xuất xứ từ vùng Chămpa xưa, tuy nhiên sau này được nghệ nhân gốm Quảng Đức tái tạo lại, màu sắc và kiểu dáng có thay đổi chút ít), xung quanh vai ghè có đắp tai để gắn ống hút, trang trí các chấm bi và con thạch sùng đắp nổi, thân ghè có các chi tiết khắc hình rồng và đặc biệt có gắn kèm thêm ghè “con” ở trên miệng cao từ 10-15cm được thông với nhau và cũng có hoa văn như ghè “mẹ”, có nhiều kiểu từ “cõng một con” đến “bốn con”. Những ghè “con” gắn liền như một chiếc cốc riêng biệt, thể hiện sự tôn trọng của gia chủ đối với khách, loại rượu được ủ trong chiếc ghè này thường uống trong những buổi trao đổi hàng hóa và dùng như để “ngoại giao” với những nhân vật tiếng tăm và các thủ lĩnh khác trong vùng.
 
Trong mỗi chiếc ghè người dân bản địa ngày xưa, họ thường lấy những hình ảnh gần gũi nhất với đời thường là chim muông, cây lá,.. đưa những gì thấy được vào chiếc ghè quý của mình, làm cho chúng thêm đa dạng và phong phú về thể loại. Sau này sở dĩ có sự phân chia các loại ghè như ghè Xơ Đăng, ghè Ba Na, ghè Giẻ -Triêng... vì chúng được sở hữu, đặt tên và dùng vào mục đích riêng giữa các dân tộc bản địa, tuy nhiên họa tiết cổ xưa trên thân ghè thì gần như nhau và luôn ẩn chứa nhiều điều mà đến ngày nay chúng ta vẫn còn phải nghiên cứu.
 
 
Trong đời sống hàng ngày của đồng bào dân tộc thiểu số, hầu như gia đình nào cũng làm rượu, những chiếc ghè đều có chủ riêng biệt, nhưng khi uống thì lại không của riêng ai, họ có thể uống bất kỳ lúc nào, già trẻ trai gái đều biết uống rượu cần. Trong một lễ hội truyền thống thông thường, những ghè rượu được phân loại khá cụ thể, ghè dành cho người già (xik kră pơlei) được lựa chọn rất kỹ từ ghè quý hiếm cho đến chất lượng của rượu, những thanh niên (15 tuổi trở lên) được uống một loạt ghè riêng (xik de adruh tơdăm pơlei), ghè này thân cao hơn chứa được nhiều rượu, đường kính bụng ghè nhỏ chỉ khoảng 35-40cm thể hiện sự cường tráng, sức mạnh của tuổi trẻ, sau đó đến ghè dành cho người nhỏ hơn (từ 15 tuổi trở xuống) và con cháu phục vụ trong lễ hội (xik de aioh pơlei), loại này nhỏ, có ghè chỉ cao khoảng 40cm, những chiếc ghè này chủ yếu mang tính chất tượng trưng chứ không uống, nó chứa đựng những ước vọng của gia đình dòng tộc dành cho thế hệ sau của mình... Tất cả những chiếc ghè được dùng để ủ rượu (Jrăm) hay còn được gọi là “ghè nam”, một loại ghè rất quan trọng và đặc biệt nữa (xik bôĩ m’măn tơ nam xa) hay “ghè nữ”, bởi có tên gọi đó vì ghè này hầu như chỉ đặt một chỗ trong góc bếp, người phụ nữ thường dùng để dự trữ thức ăn, thịt rừng hay thịt muối chua có thể để ăn dần trong vài tháng ở gia đình. Kiểu dáng như chiếc chum của người Kinh, có cái khá lớn đường kính bụng lên đến 60cm, cao 80cm nhưng khác cái chum ở chỗ miệng ghè rất nhỏ chỉ rộng 15-20cm đủ đưa một bàn tay vào, rất kín đáo và giúp cho đồ vật bảo quản sẽ lâu hơn, loại ghè này đơn giản về màu sắc, không sặc sỡ, không có tai, không đắp nổi nhiều chấm nhỏ như “ghè nam” (jrăm), hoa văn chỉ đơn thuần là một số vòng tròn quanh thân ghè. Trong tín ngưỡng của một số đồng bào dân tộc thiểu số tại Kon Tum, những người già cho rằng nét vẽ trong loại ghè này tượng trưng cho sợi dây không bao giờ đứt, là sự nối kết gia đình, thể hiện trách nhiệm và thủy chung của người phụ nữ khi đã có chồng. 
 
Trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại Kon Tum, khu vực sở hữu nhiều ghè nhất vẫn là dân tộc Ba Na, Xơ Đăng, hay Giẻ-Triêng còn các dân tộc Brâu, K’Dong, Rơ Mâm chiếm rất ít. Một điểm chung giữa các dân tộc nơi đây là khi một người chết đi, họ sẽ được mang theo chiếc ghè của họ sang thế giới bên kia, như một “bảo bối” chống lại sức mạnh của quỷ dữ. Bởi thế nên ta thường thấy trên những nấm mộ của đồng bào dân tộc thường có vật dụng lúc sống của họ, nhưng đã được người sống làm khuyết đi, chẳng hạn như bị đục thủng đáy hoặc sứt miệng.., tượng trưng cho sự mất mát, không lành lặn trong gia đình và có lẽ là cố ý để người sống không dùng được nữa nếu như bị đánh cắp. Cũng vì thế những chiếc ghè cổ ngày càng ít dần theo thời gian, chỉ một số ít tặng lại cho con cháu của mình trước khi mất thì còn được lưu lại, những chiếc ghè này người đồng bào giữ như một vật kỷ niệm tưởng nhớ người đã khuất chứ thường không sử dụng. Việc bảo quản ghè của người dân tộc thiểu số cũng gần giống nhau, chủ yếu để quanh nhà sàn cạnh bếp lửa cho bám khói bếp thật nhiều, một phần là muốn gần gũi hơn với tổ tiên của mình và cũng là giữ được lớp men không bị trầy xước...
 
Ngày nay các dân tộc thiểu số Kon Tum luôn giữ được nét văn hóa uống rượu cần trong mọi hoạt động của làng, còn số ít tại các làng vùng sâu vẫn còn ủ rượu trong những chiếc ghè quý hiếm của mình và chỉ có khách thật quý mới được uống, họ cũng cho rằng uống rượu trong những chiếc ghè ấy sẽ ngon và mát hơn, họ coi ghè như cuộc sống của họ vậy vì nó là vật chứng lịch sử hàng trăm năm và là sợi dây kết nối với quá khứ của cha ông.
 
Thế Phiệt
(Theo CTTĐTTKT)

Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

BỘ SƯU TẬP THƠ CÔNG GIÁO KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY SINH NHÀ THƠ HÀN MẠC TỬ



Ngày 22-9-2012 tới đây sẽ là kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Hàn Mạc Tử. Đây là một niềm vui cho giới Công giáo vì nhà thơ được công chúng biết đến rộng rãi nhất và được thương mến nhiều nhất này là một tín hữu Công giáo trẻ, chết lúc mới 28 tuổi. Sự kiện này đồng thời cũng khiến chúng ta nhớ đến những khó khăn rất lớn mà Giáo hội Công giáo Việt Nam đang gặp phải trên lãnh vực văn hóa.
Những trì trệ và khó khăn lớn Giáo hội Công giáo Việt Nam đang gặp phải trên lãnh vực văn hóa:

- Chữ Quốc ngữ do các thừa sai Công giáo sáng tạo hơn 400 năm qua và giờ đây đã trở nên công cụ cho mọi sinh hoạt thường ngày của dân Việt, thế nhưng trên diễn đàn văn học chỉ có duy nhất một tác giả Công giáo được công chúng biết đến là nhà thơ Hàn Mạc Tử;

- Giới Công giáo bị coi như vắng mặt trên văn đàn vừa do những hoàn cảnh cụ thể bên ngoài, vừa do Giáo hội Việt Nam chưa quan tâm đào tạo;

- Không có các nhà văn, nhà thơ thì cũng không có những người viết kịch bản và làm phim để chuyển tải Tin mừng qua nghệ thuật;

- Những người được ơn cầm bút đã quá ít, rời rạc, lại không được khích lệ cho nên không quan tâm phát triển tài năng;

- “Tiếng Việt là gia tài cha ông để để lại cho con cháu luyện tập để chuyển tải Tin Mừng cứu độ cho thiên hạ lại bị bỏ quên hoặc coi thường, trong khi thiên hạ biết tôi luyện và tận dụng tiếng Việt để chuyển đạt các tư tưởng chống Chúa, chống Giáo hội” (ĐGM Micae Hoàng Đức Oanh, lời tựa bộ sưu tập thơ Có Một Vườn Thơ Đạo);

- “Tình trạng viết văn tiếng Việt của các bạn trẻ ngày nay thật đáng suy nghĩ! Mấy chục năm thời chiến, vừa học vừa nấp bom tránh đạn, thì thước đo trí thức lấy cộng trừ nhân chia làm chính. Hòa bình lập lại, cả thầy lẫn trò bị hút vào vi tính và ngoại ngữ, tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ bị bỏ quên, chẳng còn mấy ai chuyên chăm luyện văn, tập viết” (ĐGM Micae Hoàng Đức Oanh, sđd). Khả năng viết tiếng Việt của sinh viên học sinh trong nước xuống thấp không tưởng tượng nổi, trở ngại rất lớn cho việc đào tạo các ơn gọi trẻ trong Hội Thánh – nơi tất cả các Giáo phận và các Dòng tu quốc nội. “Trên thương trường và các mặt khác của xã hội, tình trạng yếu kém tiếng Việt chẳng trở ngại gì lắm, nhưng trên cánh đồng của Chúa mà cứ thế, thì người của Chúa lấy đâu văn chương chữ nghĩa mà rao giảng Tin Mừng?” (ĐGM Micae Hoàng Đức Oanh, sđd).
Bộ sưu tập thơ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn Mạc Tử 

Để khơi dậy sinh hoạt sáng tác văn thơ nơi giới Công giáo, từ hơn 20 năm qua, một vài anh em chúng tôi (linh mục và giáo dân) đã tìm liên lạc, gặp gỡ và nối kết những người cầm bút. Chúng tôi đã thực hiện những sưu tập (1) để gom góp những tác phẩm sẵn có và những cuộc thi sáng tác (2) để phát hiện và vun trồng những tài năng mới. Dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn Mạc Tử, là một cột mốc để chúng tôi đúc kết một giai đoạn làm việc với bộ sưu tập thơ Công giáo mang tên CÓ MỘT VƯỜN THƠ ĐẠO, gồm 4 quyển:

+ Quyển 1: nói riêng về Hàn Mạc Tử, tập trung vào mảng thơ đạo của anh.

+ Quyển 2: 45 tác giả thơ Công giáo, có năm sinh từ 1912 đến 1940

+ Quyển 3: 51 tác giả thơ Công giáo, có năm sinh từ 1941 đến 1955

+ Quyển 4: 44 tác giả thơ Công giáo, có năm sinh từ 1956 đến 1990

Hiện nay giới văn học vẫn còn ngộ nhận trầm trọng về thơ đạo của Hàn Mạc Tử. Với những bài viết của một số tác giả Công giáo sắp xếp có hệ thống, quyển I của bộ sách mong sẽ giúp độc giả có được cái nhìn chính xác và sâu xa hơn, tiếp cận với tinh thần đạo hạnh và cả kinh nghiệm tâm linh sâu thẳm đáng kinh ngạc của nhà thơ trẻ tuổi.

140 tác giả ở ba quyển sau gồm 03 giám mục, 32 linh mục, 05 tu sĩ , 03 chủng sinh, 59 giáo dân nam, 01 nam cảm tình viên, 25 giáo dân nữ và 12 nữ tu.

Thế nhưng bài toán cộng rất đáng suy nghĩ. 1 + 140 mà kết quả hình như vẫn chỉ mới là = 1. Sau hơn 400 năm cống hiến chữ Quốc ngữ cho Dân tộc, giới Công giáo chỉ mới có được một ngôi sao duy nhất trên nền trời văn học. Ước mong của nhóm biên tập là bộ sưu tập sẽ tạo điều kiện để sớm xuất hiện những tác giả văn thơ Công giáo sáng giá có chỗ đứng trên diễn đàn văn học nước nhà.

Linh mục TRĂNG THẬP TỰ

Ghi chú:

(1) Cụ thể là: quyển GÓP NHẶT THƠ CÔNG GIÁO VIỆT NAM với 40 tác giả (Nxb Thuận Hóa 1998), quyển KINH TRONG SƯƠNG với 15 tác giả (Nxb Phương Đong, 2007) và bộ sách Ở THƯỢNG NGUỒN THI CA CÔNG GIÁO (6 quyển, Nxb Tôn giáo, 2009)

(2) Ngoài hai cuộc thi chung SEN GIỮA LẦY (2010) và NHÁNH HUỆ NƯỚC TRỜI (2011), còn có những cuộc thi ở cấp giáo phận tại Qui Nhơn, Phan Thiết và Xuân Lộc


BỘ SƯU TẬP THƠ CÔNG GIÁO – ĐĂNG KÝ TRƯỚC NGÀY 10-6-2012 

Thực hiện bộ sưu tập thơ Công giáo 4 tập CÓ MỘT VƯỜN THƠ ĐẠO, ước mơ của Nhóm Biên tập là làm sao phát hành thật rộng rãi và với giá thật thấp để mọi sinh viên học sinh đều có thể mua được. Nhắm đến sinh viên học sinh là để thúc đẩy các em quan tâm trau dồi tiếng Việt, chuẩn bị cho các em, cách riêng những em sẽ dâng mình cho Chúa có khả năng nói và viết tiếng Việt tốt hơn.
Ưu tiên cho sinh viên học sinh

Việt Nam hiện có 26 giáo phận. Nếu mỗi giáo phận nhỏ có 1.000 độc giả tìm mua và các giáo phận lớn nhiều hơn, nhu cầu sẽ lên đến 30.000 bộ. Lúc đầu chúng tôi theo đuổi ý tưởng tìm nguồn tài trợ để bù lỗ cho 30.000 bộ sách, thế nhưng kinh phí quá lớn sẽ không tìm nổi. Theo lời khuyên của một số vị khôn ngoan, chúng tôi đã đổi ý: sẽ dừng lại với con số 10.000 bộ đã đăng ký xin giấy phép, phát hành dịp kỷ niệm 100 năm sinh nhật nhà thơ Hàn Mạc Tử. Sau lễ kỷ niệm, bộ sách sẽ được đưa lên mạng internet cho độc giả khắp nơi có thể truy cập. Lượng người tiếp cận với bộ sách sẽ vượt trên con số 30.000 mà khỏi phải tìm nguồn trợ giá.
Tìm nguồn trợ giá

Việc thực hiện 10.000 bộ sách in được tiến hành, vì hiện nay sách in vẫn còn cần thiết, nhất là đối với những người chưa biết internet. Tuy nhiên kinh phí để thực hiện 10.000 bộ không nhỏ. Tiền in mỗi bộ sách hết 110.000 VNĐ. Tổng cộng sẽ lên đến 1 tỷ 100 triệu. Để sinh viên học sinh mua được, sẽ đề giá bìa đồng đều mỗi quyển 20.000 VNĐ. Mỗi bộ 4 quyển cộng lại là 80.000 VNĐ và sẽ trừ 25% cho phía phát hành, chỉ thu được 60.000 VNĐ, tức là mỗi bộ sách phải bù lỗ 50.000 VNĐ. Tổng số bù lỗ sẽ lên đến 500 triệu, chưa kể lượng sách tặng.

Bộ sách được thực hiện do thao thức của nhóm biên tập, không có một ngân quỹ chính thức nào bảo trợ. Khi nộp hồ sơ xin giấy phép, chúng tôi chỉ có được vỏn vẹn 50 triệu VNĐ. Chúng tôi đã gõ cửa một vài nơi trong và ngoài nước nhưng cho đến lúc này chưa có kết quả. Giáo dân rất nhanh nhạy đóng góp xây những nhà thờ vật chất nhưng khi nói đến việc xây những đền thờ tinh thần hình như rất ít người hiểu, in sách bán bù lỗ là chuyện viển vông… Nó cũng không nằm trong quan niệm thông thường của những người điều hành các cơ quan tài trợ. Dù vậy chúng tôi cố gắng vận động tối đa để giới thiệu được cho các bạn trẻ biết đến dòng thơ Công giáo Việt Nam.

Quả là rất khó, thế nhưng việc xây những đền thờ tinh thần quan trọng không kém gì xây đền thờ vật chất, để vượt thoát những trì trệ và khó khăn về văn hóa của Giáo hội Việt Nam, cần có một bước đột phá. Cần phải mạnh dạn đầu tư nếu muốn vun trồng một đội ngũ tác giả văn thơ trẻ.

Nếu không liều thì chuyện tông đồ cho giới trí thức chẳng bao giờ đạt kết quả. Vì thế, chúng tôi vẫn tiến hành trong tin cậy và phó thác, học theo kinh nghiệm những người làm nhà thờ, phóng lao rồi theo lao, đã có ngày đặt viên đá đầu tiên thì sẽ có ngày khánh thành. Năm kia và năm ngoái chúng tôi đã tổ chức hai cuộc thi văn thơ trên mạng, lần đầu tốn kém khoảng gần 1/20 và lần sau khoảng 1/10 kinh phí một ngôi nhà thờ nhỏ. Lúc đầu chúng tôi chẳng có gì nhưng rồi dần dần cũng đâu vào đó. Nếu quý độc giả chung mối đồng cảm, xin quảng đại giúp chúng tôi theo đuổi công cuộc tông đồ văn hóa cụ thể này.

Các khoản giúp đỡ xin gởi về:

Lm VÕ TÁ KHÁNH

Tòa Giám mục Quy Nhơn

116 Trần Hưng Đạo

Tp Quy Nhơn – Việt Nam

ĐT:                     0935-424-449

Email:    gopnhattho@yahoo.com

Mỗi thứ Bảy hằng tuần linh mục Chủ biên đều dâng lễ kính Đức Mẹ cầu nguyện cho các ân nhân của công cuộc này. Đức Mẹ sẽ nhớ đến tấm lòng Quý Vị đã tha thiết muốn xây dựng những đền thờ tinh thần để tôn vinh Chúa Cứu Thế, Con yêu dấu của Ngài. Nguyện chúc Quý Vị và gia đình luôn an vui hạnh phúc trong tình yêu Thiên Chúa.
Phân phối qua phòng phát hành sách các Tòa giám mục

10.000 bộ sách cho sinh viên học sinh của 26 giáo phận, bình quân mỗi giáo phận chưa được 400 bộ. Để tránh lạm dụng và để sách có thể đến tay sinh viên học sinh, chúng tôi sẽ nhờ phòng phát hành sách của các Tòa Giám mục giúp phân phối. Vì số sách có hạn, các bạn trẻ có nhu cầu nên nhờ cha xứ đăng ký trước tại phòng phát hành sách giáo phận trước ngày 10-6-2012.  

Lm Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh 

(Nguồn: TTVHQN)

Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012

GIÀ LÀNG TÂY NGUYÊN

                  
                                                        FX. Quang Thiện 

Nhà Rông Tây Nguyên

Có lẽ đã xưa lắm rồi, trên rẻo đất Tây nguyên của Tổ quốc Việt Nam, những ngôi làng nhỏ bé và lẩn khuất của bà con dân tộc, đều được hình thành nhờ kinh nghiệm sống chung với thiên nhiên và bởi những bước chân thăng trầm dày dạn nắng mưa sương gió của các bậc cao niên, trưởng bối mà ngày nay ta gọi một cách trân trọng và trìu mến, ấy là các Già Làng.
Sinh hoạt Già Làng Tây Nguyên
Các Già Làng không phải là thần linh, nhưng các Già Làng luôn luôn là chỗ dựa tinh thần cho cả cộng đồng. Buôn làng nào có nhiều người già, buôn làng ấy ắt giàu sang hơn, hùng mạnh hơn. Một buôn làng có thể thiếu một vài chức danh với một vài vai trò, nhưng chức danh Già Làng, vai trò của Già Làng thì không thể thiếu một ngày, mặc dù chức danh ấy chỉ hình thành cách tự nhiên, không qua bất kỳ thủ tục bầu bán hành chính nào. Cũng như mỗi dàn chiêng đều phải có chiêng cái, chiêng con, chiêng núm, chiêng bằng, cái đi giai điệu, cái cầm nhịp; những dàn chiêng lớn thì trống cái vừa giữ nhịp, vừa tôn giai điệu, giữ cho sắc thái của giai điệu luôn luôn giàu sinh lực và đẹp về sắc điệu, người ta thường ví Già Làng như một trống cái cầm trịch mọi sinh hoạt đời sống văn hóa tinh thần của bà con buôn làng.
Già làng chơi đàn Pơ rang
 Già Làng có cái tai nghe được cả dàn chiêng, Già biết cái nào đúng, cái nào sai, cái nào lỡ nhịp tách đàn, và bằng khả năng trực giác nhạy cảm, Già so chiêng điều chỉnh lại cả tiết tấu, nhịp điệu lẫn cái hồn trong mỗi cái chiêng. Khi con cháu dựng nhà rông cho buôn làng mình, “Hội Đồng Già Làng” đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Sự điều hành của các Già Làng bên ché rượu cần rất quan trọng, rất chặt chẽ, chi tiết, và tỉ mẩn. Các Già Làng rất thoải mái, không gượng ép gò bó bất kỳ ai, bất kỳ công đoạn nào của công việc. Tất cả vì vẻ đẹp truyền thống của buôn làng ta. Ta không thể thiếu được
ngôi nhà rông, nơi sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, cũng như trong các ngày lễ hội. Nếu không có Già Làng thì liệu có thành lễ hội hay không?
Già làng Tây nguyên - Ảnh Google
 Tối tối đến, trong những ngôi nhà sàn bình yên bên bếp lửa hồng, những người già thường tới nhà Già Làng trò chuyện. Già Làng là trung tâm đoàn kết, là kho báu kinh nghiệm sản xuất và kinh nghiệm ứng xử với thiên nhiên khi sấm sét, lũ lụt, khi mưa to, bão lớn, dịch  bệnh, khi núi lở, sông cạn, khi có thú dữ loạn rừng, khi hạn hán kéo dài…Già Làng chính là pho tư liệu luật tục ngàn đời truyền lại, là cuốn từ điển bách khoa, giúp cho con cháu biết điều hay, lẽ phải, biết cái đúng, cái sai để ứng xử trong các mối quan hệ giữa người với người, giữa người với thiên nhiên.Bà cụ trăm tuổi của làng ta là niềm tự hào chung của cả cộng đồng.
Già làng Tây nguyên - Ảnh Google
Già Làng tồn tại là sự hiện diện của lòng kiêu hãnh của buôn làng trước vị thần thời gian linh thiêng và huyền bí. Trong các bản trường ca của các dân tộc Bahnar, Jrai, Êđê, Mơnông, Xêđăng, Giẻ Triêng, … thường xuất hiện các tù trưởng là nữ, nhưng Già Làng vẫn là các vị đàn ông tài giỏi, thời trai trẻ từng là những tay ném lao lừng danh, tay cầm rựa sắc bén, tay bắn ná cự phách.
Già làng Tây nguyên - Ảnh của Đào Thọ
 Già làng từ cổ xưa đã có nhiều quyền uy. Cái quyền uy không mang chút xíu dấu ấn nào của quyền lực, cường quyền, mà là cái uy thiêng liêng được xuất phát từ lòng ngưỡng mộ, tôn sùng vì đức độ, uy danh lừng lẫy. Những tấm thổ cẩm với muôn ngàn đường hoa văn rực rỡ lại được dệt nên bởi những bàn tay chai sạn, khéo léo, cần cù mà Già Làng có thể chỉ ra cho ta hiểu ý nghĩa của từng mỗi chi tiết hoa văn, mỗi đường tơ, mũi chỉ lên xuống trập trùng trong bức tranh tuyệt vời ấy.

Trích từ " Đàn chim thiên báo" 

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2012

BỜM ƠI LÀ BỜM








Bùi Công Thuấn
vnscl



1.”Bờm ơi là bờm !”

Có lần, tôi hí hửng đi chợ mua một miếng heo quay về ăn, gọi mừng món mới ngày lĩnh lương. Những tưởng thế nào cũng được người bạn đời khen, “ trời ơi! sao hôm nay anh đảm đang thế!”, và tôi sẽ ưỡn tấm ngực ra đầy tự hào:”Xưa nay anh vẫn đảm đang, ấy chứ lị”. Ai ngờ, nàng cầm miếng thịt lên nhìn và lắc đầu, “bờm ơi làm bờm! đàn ông đàn ang các anh đi chợ là dễ bị lừa lắm. Nó bán được cho anh chỗ này nó vừa mừng lại vừa cười vào mũi cho, bờm ạ!. Tôi ớ người ra, tôi bị nàng gọi là bờm, mà sao là bờm ? Tôi hỏi nàng, sao em bảo anh bờm? Nàng nói, chính câu hỏi của anh đã chỉ ra anh là thằng bờm thứ thiệt rồi chứ còn là sao nữa. “Bờm ơi là bờm! lại còn hỏi”. Tôi là thằng bờm, tôi là thắng bờm? thế nào là bờm ?

Tôi chợt nhớ đến bài ca dao.

Thằng Bờm có cái quạt mo

Phú ông xin đổi ba bò chín trâu

Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu

Phú ông xin đổi một xâu cá mè

Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè

Phú ông xin đổi một bè gỗ lim

Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim

Phú ông xin đổi con chim đồi mồi

Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi

Phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười

Bài ca dao giúp tôi hiểu Bờm là thằng khờ, là thật thà quá đến mức không biết tính toán lợi lộc gì cả. Ba bò chính trâu, ao sâu cá mè, bè gỗ lim không lấy, lại lấy nắm xôi! Vâng bờm là khờ, là quá thật thà, dưới mức trung bình của thói thường tình trong đời sống.

Tôi những tưởng rằng bài ca dao thằng bờm do nhân dân làm ra là để giải thích thuộc tính “bờm” của một loại người chất phác, thật thà, không biết tính toán lợi lộc cho mình. Nhưng khi đọc bài viết của Nguyễn Trọng Bình, Lê Tiến Dũng, Đỗ Minh Tuấn thì các tác giả “giải mã” ý nghĩa bài ca dao không phải là vậy. Nguyễn Trọng bình tổng kết ý kiến người đi trước và đưa ra các lý giải ý nghĩa bài ca dao như sau:

1.” Bài ca dao Thằng Bờm là tiếng cười châm biếm, đả kích những hạng người giàu có nhưng tham lam, ngu dốt và đặc biệt là rất hay khoe khoang, vênh váo, tự đắc, mình là số một trong thiên hạ – một dạng “trọc phú” hay “trưởng giả học làm sang” trong xã hội mà Đông Tây, kim, cổ đều có.

2. Bài ca dao Thằng Bờm phản ánh sự bất công trong xã hội. ..Tiếng cười của thằng Bờm ở cuối bài ca dao là tiếng cười để tác giả dân gian qua đó bộc lộ những khát vọng, những ước mơ chính đáng về một cuộc sống, một xã hội công bằng, dân chủ.

3 Bài ca dao thể hiện một triết lý nhân sinh có ý nghĩa muôn thuở của người xưa đó là: trong cuộc sống không phải anh có tiền, có của là anh muốn gì cũng được, mua gì cũng được, đổi gì cũng được, làm gì cũng được...

4 Bài ca dao Thằng Bờm khẳng định chiều sâu của vẻ đẹp trí tuệ và tư duy dân gian sâu sắc và độc đáo của người xưa: những kẻ mà trong cuộc sống tuy giàu về tiền bạc, của cải nhưng chưa chắc đã “giàu” về trí tuệ, ngược lại những người nghèo khó về tiền bạc nhưng có khi họ rất “giàu” về trí tuệ “(Kiến thức ngày nay, số 740,ngày 01/03/2011

2. Hạn chế của phương pháp phê bình.

Bây giờ thì tôi hoang mang thật sự, không còn biết ý nghĩa thực của bài ca dao là gì. Ý kiến của những nhà nghiên cứu trên có thật là chân lý của vấn đề hay không. Tôi mơ hồ rằng những kiến giải ấy nằm ngoài văn bản bài ca dao, điều này thúc giục tôi bước vào một cuộc truy tìm ý nghĩa khả tín mà nhân dân muốn gửi trong bài ca dao này

Nguyễn Trọng Bình cho rằng Phú Ông là kiểu người như Thạch Sùng, tự hào có mọi thứ, chỉ thiếu cái quạt mo. “Lão trọc phú đã huênh hoang cho rằng nhà ta “cái gì cũng có” nhưng khi thằng Bờm trưng ra “cái quạt mo” thì lão mới tá hỏa. Nếu “Thạch Sùng thiếu mẻ cá kho” thì tên Phú Ông này thiếu cái “cái quạt mo” cũng không có gì là lạ và khó hiểu.”(đd). Tôi đọc đi đọc lại bài ca dao, rõ ràng là trong văn bản bài ca dao trên tuyệt nhiên không có bất cứ một dấu chỉ nào, rằng nội dung cuộc trao đổi của thằng bờm với phú ông giống như cuộc trao đổi trong truyện Thạch Sùng. Tác giả bài viết đã tưởng tượng ra câu chuyện Thạch Sùng ngoài văn bản bài ca dao, hay nói cách khác tác giả đã áp đặt cái nghĩa chủ quan của mình cho văn bản mà bản thân văn bản không hề có. Vì thế, những suy diễn tiếp theo càng lạc xa ngoài văn bản hơn nữa. Ấy là, tác giả kết luận :“Bài ca dao Thằng Bờm là tiếng cười châm biếm, đả kích những hạng người giàu có nhưng tham lam, ngu dốt và đặc biệt là rất hay khoe khoang, vênh váo, tự đắc, mình là số một trong thiên hạ”.

Kết luận rằng :” Bài ca dao Thằng Bờm phản ánh sự bất công trong xã hội, bộc lộ những khát vọng, những ước mơ chính đáng về một cuộc sống, một xã hội công bằng, dân chủ.nghe như là tác giả đang nói về thằng bờm trong thời đại hôm nay, ước mơ xây dựng một nước Việt Nam XHCN văn minh, tiến bộ, công bằng, dân chủ, và giàu mạnh. Đọc bài ca dao, người đọc đều nhận rõ Bờm đâu có ước mơ gì. Tất cả những gì phú ông hứa đổi đều bị Bờm gạt phăng đi. Bờm đâu có mơ giàu có để công bằng với phú ông. Phú ông cũng không dùng quyền lực để tước đoạt quạt mo của thằng bờm. Trong tương quan xã hội, địa vị Bờm, vẫn ngang hàng với phú ông. Nó vẫn làm chủ tài sản của nó. Phú ông chẳng làm gì được.

Kết luận sau đây có lẽ là một ngẫu hứng lãng mạn không hơn không kém:” Bài ca dao Thằng Bờm khẳng định chiều sâu của vẻ đẹp trí tuệ và tư duy dân gian sâu sắc và độc đáo của người xưa: những kẻ mà trong cuộc sống tuy giàu về tiền bạc, của cải nhưng chưa chắc đã “giàu” về trí tuệ, ngược lại những người nghèo khó về tiền bạc nhưng có khi họ rất “giàu” về trí tuệ”(đd). Hóa ra tác giả ám chỉ thằng bờm là nhân vật trí tuệ, là người giàu có, còn phú ông mới là kẻ ngu dốt, nghèo nàn ! nếu được như vậy thì quả là phúc đức 10 đời cho thằng bờm. Hoan hô Bờm, hoan hô thằng Bờm rất giàu có về trí tuệ !!! (hoan hô người bạn đời đã mắng yêu tôi là Bờm! Hóa ra nàng khen tôi trí tuệ!)

Tôi không tin điều ấy, bởi đã là bờm thì làm gì có trí tuệ! Dân gian không ai gọi Bờm là người tuy nghèo về vật chất mà rất giàu có về trí tuệ cả. Bờm là bờm, là khờ khạo, thậm chí thiểu năng trước những người khôn ngoan.Thế thôi. Vậy do đâu lại có những giải mã như vậy. Tôi nhận ra rằng các tác giả đã áp dụng phương pháp phê bình MarxistPhản ánh luận của Lê Nin để phân tích bài ca dao. Đọc tác phẩm văn học bằng phương pháp này, người ta luôn tìm xem đâu là cuộc đấu tranh giai cấp được phản ánh trong tác phẩm, tìm xem ý nghĩa xã hội của tác phẩm là gì, và luôn đứng trên lập trường quần chúng, lập trường cách mạng để đánh giá tốt xấu, hay dở. Từ đó người ta gán cho phú ông là giai cấp địa chủ bóc lột muốn cướp đoạt hết thành quả lao động của người nông dân kể cả cái quạt mo là thứ chẳng có giá trị gì; Từ đó suy ra câu chuyện trong bài ca dao là cuộc đấu tranh giai cấp mà nhân dân là kẻ chiến thắng; cũng từ đó nói đến sự phản ánh sự bất công trong xã hội” phản ánh khát vọng về một cuộc sống, một xã hội công bằng, dân chủ. Những suy diễn như thế hoàn toàn là áp đặt chủ quan của tác giả, nằm ngoài ý nghĩa của chính văn bản bài ca dao.

3.Đâu là căn cốt của vấn đề ?

Bài ca dao này nói đến phú ông - thằng Bờm, nói đến trâu bò, ao cá, bè gỗ… chắc chắn nó đã ra đời trước khi chủ nghĩa Marx truyền vào Việt Nam. Như thế tác giả dân gian đâu có sáng tác theo quan điểm cách mạng, đâu có xây dựng nhân vật điển hình cho các giai cấp trong xã hội, đâu có miêu tả hoàn cảnh điển hình mà ở đó tập trung mâu thuẫn giai cấp, đâu có mở ra tương lai theo cách nhìn lãng mạn cách mạng. Bờm không đại diện cho một giai cấp nào trong xã hội Việt Nam. Cuộc đổi chác giữa bờm và phú ông không phải là một cuộc đấu tranh giai cấp, nó rất khác với “cảnh mua bán ở nhà Nghị Quế “ trong Tắt Đèn. Người ta không thể tìm thấy bất cứ yêu cầu nào của của chủ nghĩa Hiện Thực Xã Hội Chủ nghĩa trong bài ca dao này. Vì thế, làm gì có chuyện tố cáo giai cấp thống trị bóc lột, làm gì có “ai thắng ai ”. Rõ ràng phương pháp phê bình Marxist không phù hợp để phân tích bài ca dao này, đơn giản phương pháp này chỉ áp dụng cho các tác phẩm viết bằng phương pháp tả thực. Tức là những tác phẩm mà nhà văn hướng về hiện thực để sáng tác, tìm nhân vật, tìm cốt truyện, quan tâm đến những vấn đề xã hội. Nhà văn viết tác phẩm là để lên tiếng nói với hiện thực, để góp phần cải tạo xã hội. Nói như Sóng Hồng :“Dùng bút làm đòn chuyển xoay chế độ/ mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền” hay như Thạch Lam, “văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có , để vừa tố cáo vừa thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác , vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn” . Bút pháp tả thực buộc nhà văn phải tuân thủ những quy luật vận động khách quan của hiện thực.

Bài ca dao Thằng Bờm được viết bằng bút pháp gì?

Tác giả dân gian thuật lại câu chuyện trao đổi giữa phú ông và thằng Bờm. Như vậy bài ca dao là một câu chuyện (phương thức tự sự), nhưng người thuật truyện đã tước bỏ hết không gian, thời gian, tước bỏ những chi tiết về nhân thân của nhân vật. Ta không biết sự việc xảy ra ở đâu, vào lúc nào, mặt mũi, thái độ của nhân vật ra sao. Câu chuyện chỉ còn là lời thoại được thuật gián tiếp :”Bờm rằng bờm chẳng lấy…”. Xem xét thái độ trong cuộc đối thoại của hai nhân vật, ta thấyThái độ của phú ông rất ẩn nhẫn và từ tốn. Tác giả dân gian thuật lại rằng: “Phú ông xin đổi”nhiều lần, có vẻ như nài nỉ. Phú ông không quát nạt, hăm dọa hay tạo bất cứ áp lực trên Bờm. Phú ông xin đổi, đó không phải là thái độ trịch thượng, bất nhân như vợ chồng Nghị Quế khi thương lượng mua ép mua rẻ cái Tý và đàn chó của chị Dậu (Tắt Đèn). Trong thực tế không hề có câu chuyện trao đổi như thế. Chuyện ngã giá, lẽ ra phú ông phải tăng giá để đổi được quạt mo, trái lại ông cứ giảm giá dần dần. Điều này trái với quy luật khách quan của hiện thực. Như vậy ta có thể khẳng định bài ca dao Thằng Bờm không được viết bằng bút pháp hiện thực. Thế nghĩa là ta không thể khai thác ý nghĩ bài ca dao như một câu chuyện có thật trong đời, không thể coi những chi tiết của câu truyện là thật, để từ đó chỉ ra ý nghĩa xã hội của bài ca dao. Tất cả hệ thống truyện chỉ có ý nghĩa biểu trưng như một câu chuyện ngụ ngôn.

Chẳng ai lại tin rằng trong ngụ ngon Trí Khôn Của Ta Đây (1), cọp lại đi đứng nói năng như người, và để bác nông dân trói vào cây mà đập, mà đốt. Chủ đề của truyện Trí Khôn Của Ta Đây thật đơn giản: con người hơn loài vật, làm chủ muôn loài nhờ có trí khôn. Truyện cũng giải thích tại sao trâu không có răng cửa , tại sao trên mình cọp lại có những sọc vằn. Cũng vậy câu chuyển trao đổi giữa phú ông và thằng bờm chứa đựng một bài học nào đó cần khám phá như một ngụ ngôn.

Thông điệp từ bài ca dao Thằng Bờm cũng thật rõ ràng. Trước tiên bài ca dao giải thích thuộc tính “bờm”. “Bờm” là “khờ”, là không biết gì, là ngây thơ trước thực tại. Đơn giản là vậy, như truyện Trí Khôn của Ta Đây giải thích tại sao trâu không có răng cửa, tại sao cọp lại có vằn vện trên thân. Tuy nhiên, cũng cần xem xét vấn đề này là, khi thuật lại câu chuyện trao đổi này, thái độ tình cảm của nhân dân nghiêng về nhân vật nào ? phú ông hay thằng Bờm? Câu trả lời hiển nhiên là, nhân dân dành cho bờm nhiều thiện cảm. Tại sao vậy? bởi Bờm chân thật, thẳng thắn, không thủ đoạn để vụ lợi, không ham mê vật chất, không thấy kẻ giàu có mà xun xoe đeo bám, nhờ vả, không hạ thấp nhân cách trước những kẻ có quyền lực trong xã hội. Những phẩm chất này vốn là những giá trị căn bản của nhân dân ta. Bạn có thể kiểm tra điều này: Nếu về thăm quê, bạn giản dị, chân thực, nghĩa tình, hòa đồng với mọi người, bạn sẽ được mọi người quý mến, trái lại nếu bạn ăn diện, bộ dạng khệnh khạng trưởng giả, thái độ quan cách trịch thượng, chắc chắn sẽ bị xa lánh.

Có một bí mật cần giải mã là thái độ “bờm cười” ở cuối bài ca dao. Có người cho rằng bờm đồng ý đổi lấy xôi cho chắc ăn, vì tính thực dụng nông dân vốn thế. Có nguời cho đó là thái độ minh triết. “dù thằng Bờm cười - đồng ý hay cười - không đồng ý đổi “cái quạt mo” thì trong cuộc đấu trí giữa tên “trọc phú” và anh “dân đen” cuối cùng tên trọc phú cũng thua một cách thật thảm hại và nhục nhã”(đd). Tôi không nghĩ vậy. Thái độ của bờm trước sau chỉ một mực từ chối :”bờm rằng bờm chẳng lấy..” Khi đã quá nhiều lần Bờm nói thẳng ra ý kiến của mình mà phú ông vẫn nài nỉ, thì Bờm không thèm trả lời nữa, mà bày tỏ thái độ bằng một nụ cười. Nụ cười ấy tiếp tục là sự từ chối, là không đối thoại nữa, là sự bày tỏ thái độ khinh miệt vào mặt phú ông, bởi lão đang dùng thủ đoạn. không phải Bờm đồng ý đổi lấy nắm xôi như người người đã giải thích một cách bôi bác tính thực dụng, tính phàm ăn tục uống, thói dĩ thực vi tiên của người nông dân. Bài ca dao kết lửng, ta không rõ thái độ phú ông thế nào sau cái cười của Bờm, có điều chính nụ cười này làm lộ ra rằng Bờm không “bờm” chút nào.

Muốn biết Bờm không “bờm” chút nào , ta hãy xem chiến thuật chiến lược của phú ông trong cuộc thương lượng, và thái độ ứng phó của Bờm. Phú ông liên tiếp đưa ra các đòn nặng cân để hạ knock out “đối thủ”. Phú ông đặt trước mặt Bờm “ba bò chín trân”, “ao sâu cá mà”, “ một bè gỗ lim”. Theo lẽ thường, chẳng đối thủ nào chống đỡ nổi với lòng tham trước những lợi lộc lớn lao như vậy. Ngày xưa người nông dân làm việc cật lực, dành dụm mãi mới có thể mua được hai chân sau con trâu cày, rồi lại làm cận lực và dành dụm nữa mới mua được cả con trân, vậy mà nếu Bờm chỉ cần đồng ý là có ngay “ba bò chín trâu”. Quả là một tài sản hết sức lớn đối với một nông dân nghèo. Nếu bây giờ, bỗng dưng có ai đem một triệu USD đến đổi cái nhà rách của mình, hẳn nhiều người sẽ choáng ngợp không cưỡng lại được. Thí dụ, Ngày 3/5/ 2012, Công an tỉnh Vĩnh Phúc bắt tạm giam ông Lại Hữu Lân, nguyên chủ tịch UBND và Bí Thư Thành Ủy TP Vĩnh yên (Vĩnh Phúc ) về tội nhận quà biếu là một chiếc ô tô Toyota Camry biển số 30T-7703, mà theo thời giá hiện nay là khoảng một tỷ rưỡi đồng VN. Làm sao từ chối lòng tham một món quà như thế? Thế nhưng trước những món lợi lớn như vậy, Bờm đã không bị lòng tham quật ngã. Bờm từ chối dứt khoát, một thái độ thẳng băng, trước sau lập trường không thay đổi, bụng dạ không nao núng, không đắn đo nghĩ suy hơn thiệt. Điệp ngữ “Bờm rằng bờm chẳng lấy” bộc lộ một thái độ lạnh lùng như không của Bờm trước những dụ dỗ vật chất.

Phú ông chuyển sang đổi con chim đồi mồi, nắm xôi . Chiêu gì đây ? là đánh vào cái sở thích của trẻ con, trẻ con vốn thích chim, trẻ thích xôi, bởi nông thôn xưa, xôi là món quý. Phú ông đánh vào lòng tham không được thì đánh vào sở thích. Mấy ai trong cuộc sống lại không có sở thích, nhiều khi đam mê một thứ gì đó. Mê đánh cờ, mê thả diều, chơi chim hoa cá cảnh, hòn non bộ, thích đi du lịch, mê đánh bạc, mê gái, mê nổi tiếng (thói háo danh), mê quyền lực (ngồi bắt ốc vít vào cái ghế quyền lực). Đối phương có thể dùng cái đam mê này mà quật ngã ta. Hãy lấy thí dụ , mới đây (24&25/12/2011), cơ quan CSĐT công an tỉnh Sóc Trăng đã đề nghị truy tố quan chức đánh cờ bạc tỷ là các ông Nguyễn Thanh Lèo, nguyên PGĐ Sở GTVT Sóc Trăng; Trần Văn Tân, nguyên Giám đốc TT Đào tạo lái xe loại 3 và Đinh Văn Mười, nguyên Phó chủ nhiệm UBKT thành ủy Sóc Trăng. Số tiền đặt cược trong mỗi ván cờ từ 500 nghìn đồng rồi tăng lên 5 tỷ đồng. Máu mê cờ bạc đã quật ngã các quan chức. Thế nhưng phú ông đã không quật ngã được Bờm, dù liên tiếp đánh vào sở thích trẻ con của Bờm.

Đến đây thì ngụ ngôn thằng bờm lộ ra thông điệp về giữ gìn nhân cách làm người trong đời. Bao nhiêu kẻ đã thân bại danh liệt vì lòng tham không cùng trước những lợi lộc do hợp đồng, do quà biếu, do hối lộ đem lại, để rồi tự bán thân làm nô lệ. Cũng vậy không biết bao nhiêu người vì “máu mê” mà đánh đổi tất cả. Những thí dụ tôi nêu ở trên đủ làm rõ bài học mà ngụ ngôn thằng Bờm nhắc nhở chúng ta. Thế còn thằng Bờm, nói với chúng ta thông điệp gì? Bờm không chỉ giữ vững nhân cách trước những cám dỗ vật chất, nhưng Bờm còn sáng lên nhiều phẩm tính đẹp khác, Bờm không sợ hãi, không quỵ lụy, trước phú ông (kẻ giàu có, quyền lực), Bờm biết rõ giá trị cái mình có và không đánh mất giá trị đó (cái quạt- có người bảo đó là cuộc sống thanh thảnh nhàn nhã). Bờm có cách ứng xử khôn khéo khi từ chối phú ông bằng nụ cười im lặng. Nụ cười vượt lên tất cả. Có người bảo nụ cười của Bờm là nụ cười của Thiền Sư :” Nụ cười của Bờm quả là nụ cười của thiền sư, vì trở thành câu hỏi cho nhiều người. Hãy thử hình dung vào buổi trưa hè ấy, ngài cầm quạt mo, cử chỉ ung dung tự tại, an lạc...”,” Chẳng thấy đức Phật, các vị cao tăng đắc đạo, nét mặt luôn hoan hỉ, lúc nào cũng cười đó sao? (2). Xin thưa rằng, bài ca dao không thể hiện tư tưởng Thiền, không viết bằng thi pháp Thiền mà đặc trưng là vô ngôn, vì thế không thể áp đặt nụ cười của Bờm là nụ cười Thiền được.(Xin cứ so sánh với thơ Thiền Lý-Trần)(3)

Quả là thú vị. Bài ca dao thằng Bờm gợi mở ra nhiều điều cho bạn đọc. Đó là sự giao thoa về thi pháp giữa kiểu truyện hiện thực và kiểu ngụ ngôn, có những điều nghịch lý trong truyện so với hiện thực, khiến cho thật khó nắm bắt ý nghĩa đích thực của bài ca dao (phú ông năn nỉ xin đổi một gia tài lớn để lấy cái quạt chẳng có giá trị gì, nghịch lý về sự giảm giá), một kết thúc mở bằng nụ cười đa nghĩa của thằng Bờm (Bờm đồng ý- Bờm từ chối- Bờm Thiền sư…). Bản thân tôi hiểu đơn giản Bờm là “bờm”, và mỗi lần làm việc gì, tôi phải hết sức ý tứ nếu không lại được nghe người bạn đường cười cười bảo “Bờm ơi là bờm!!!”

Ôi! thằng Bờm thật đáng yêu.

Tháng 5.2012






Bác nông dân hàng ngày dắt trâu đi cày. Con trâu đi trước kéo cái cày thật nặng theo sau. Dù công việc nặng nhọc nhưng trâu ta vẫn vui vẻ đi làm.

Một hôm, sau buổi cày, bác nông dân đang ngồi nghỉ dưới gốc cây, cho trâu ăn cỏ bên bờ ruộng. Cọp đến hỏi trâu rằng: "Này trâu, sao mày to xác như vậy mà lại để cho một thằng người bé nhỏ xỏ mũi kéo, đánh đập, mà mày cứ chịu lép vế". Trâu trả lời cọp: "Tuy người bé nhỏ, nhưng nó có trí khôn".

Cọp đến chỗ bác nông dân chặn hỏi: "Nghe trâu nói là người tuy bé nhỏ nhưng có trí khôn. Vậy trí khôn đâu, cho ta xem với". Bác nông dân đáp: "Trí khôn tôi để ở nhà". Cọp bảo: "Hãy về nhà lấy trí khôn cho ta xem". Bác nông dân trả lời: "Được chứ... Nhưng e rằng trong lúc tôi vắng mặt, thì ông cọp ăn mất trâu của tôi thì sao?"

Cọp không biết trả lời thế nào. Bác nông dân thấy vậy nói: "Vậy, cọp có bằng lòng cho tôi trói lại đã, rồi tôi về nhà lấy trí khôn cho mà xem?". Cọp ta bằng lòng. Bác nông dân bèn lấy dây thừng, cột cọp thật kỹ vào gốc cây, lấy tay cày đập vào đầu cọp rồi châm lửa đốt. Bác vừa đốt, vừa nói rằng: "Trí khôn của tao đây... Trí khôn của tao đây".

Trâu thấy vậy, nó cười ngã nghiêng, cắm đầu xuống đất, gãy mất hàm răng trên. Lửa cháy làm đứt sợi dây trói, cọp thoát được. Từ đó trên mình cọp có vết vằn, cọp sợ lửa là vậy.

(1) http://rongmotamhon.net/mainpage/detail.php?ID=500&p_id=16&tg=2

(2) Thơ Thiền Lý-Trần

Không Lộ Thiền Sư






Ngôn hoài

Trạch đắc long xà địa khả cư

Dã tình chung nhật lạc vô dư

Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.

Tỏ lòng

Kiểu đất long xà chọn được nơi

Tình quê nào chán suốt ngày vui

Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng

Một tiếng kêu vang lạnh cả trời.

(Người dịch: Phan Võ)

Mãn Giác Thiền Sư:

告疾示眾






Cáo tật thị chúng

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Có bệnh bảo mọi người

Xuân ruổi trăm hoa rụng

Xuân tới, trăm hoa cười

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi

Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua, sân trước một nhành mai

(Người dịch: Ngô Tất Tố)

Vạn Hạnh Thiền Sư

示弟子




Thị đệ tử

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,

Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Dặn học trò

Thân như bóng chớp, có rồi không,

Cây cối xuân tươi, thu não nùng.

Mặc cho thịnh suy đừng sợ hãi,

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.

(Người dịch: Ngô Tất Tố)