LINH ĐẠO Á THÁNH ANRÊ PHÚ YÊN
Hội Thánh Việt nam cũng
như toàn thể cộng đoàn Dân Chúa hoàn vũ, không ai ai có thể phủ nhận điều nầy :
TỬ ĐẠO đó chính là con đường, là cách thế tuyệt vời nhất, vĩ đại nhất để Thầy
Giảng Anrê Phú Yên được tôn vinh và ngưỡng mộ, được mến yêu và học đòi bắt
chước. Tuy nhiên, nếu đi sâu vào cuộc đời, cho dù chỉ là một cuộc đời đơn sơ,
khiêm tốn, chỉ võn vẹn 19 xuân xanh, chúng ta có thể nhận ra nơi người “thanh
niên tân tòng” nầy những nét đẹp tinh thần và nhân bản tuyệt vời và những gợi ý
sâu xa cho cuộc sống đức tin của Dân Chúa, không kém gì những nhà tu đức, những
vị Thánh Tiến sĩ lừng danh của Giáo Hội. Chúng ta có thể mạnh mẽ xác nhận với
nhau rằng : Đã có một “Linh đạo Anrê Phú Yên” ở giữa lòng Hội Thánh.
Trong cuộc chuyện trò thân mật hôm nay, chúng ta có thể mày mò tìm kiếm đôi nét
đan thanh về Linh đạo nầy mà có lẽ đã ẩn tàng đâu đó trong một mệnh đề duy nhất
: “TÌNH YÊU ĐÁP TRẢ TÌNH YÊU”.
A/. MỘT TÌNH YÊU TRUNG
THÀNH VỚI
CHÚA GIÊSU VÀ VỚI CĂN CƯỚC KITÔ HỮU :
“Trung tín” đó chính là
sứ điệp, là lời trăn trối cốt yếu và thường xuyên mà Á Thánh Anrê Phú Yên đã để
lại cho chúng ta trong những phút giây cuối cùng của Ngài, những phút giây Ngài
đang đối diện với những cực hình và thử thách, những phút giây thử thách đã
khiên bao người trong chúng ta không đủ sức để trụ vững và đành ngã lòng phản
bội. Câu chuyện tử đạo của hai Thánh Phan Viết Huy và Bùi Đức Thể đã từng
nói lên kinh nghiệm đó.
Nhưng Anrê Phú Yên thì khác.
Tình yêu của Ngài dành cho Chúa Giêsu, phải chăng trước hết là “Một Tình Yêu
Trung Tín”.
Chúng ta có thể đọc thấy rõ
tư tưởng nầy qua rất nhiều chứng từ còn để lại:
I/ Trích Bản Tường Trình của Cha Đắc Lộ
gửi cho các Bề trên ở Macao :
Viết tại Hội An ngày 1.8.1644 (Tức hơn 1 tháng
sau cuộc tử đạo của Thầy giảng Anrê)
... Và ông Nghè Bộ than phiền về nhưng câu trả
lời rất thẳng thắn như thế, và nói rằng: “ Giả sử anh ta nói với tôi rằng mình
là người nghèo và ở với Cha để có gì mà ăn, thì tôi đã tha thứ và thả anh ra.
Nhưng trái lại, anh đã táo bạo trả lời tôi rằng anh là Kitô hữu, và thờ lạy
Chúa trời đất, và không có gì trên trần gian làm cho anh từ bỏ đạo
thánh anh đã theo, và vì thế anh sẵn sàng hiến mạng sống, chấp nhận mọi
hình phạt người ta muốn giáng xuống cho anh ! Vì vậy, - Ông Nghè Bộ nói – vì
anh ta điên đến độ ăn nói như thế, nên anh phải chết”; ông đã gọi là điên rồ sự
Khôn Ngoan chân thực của Chúa Thánh Linh nói qua miệng Thầy.
I/.Trích Biên Bản cuộc điều tra cấp giáo phận
(Macao, 12-1644 đến 2-1645):
Nhân chứng II :
Francisco de Azevedo Teixeira :
Trước mặt Quan Nghè Bộ, Thầy
trả lời: “ Tôi tuyên xưng Đạo Chúa Kitô; tôi là Thầy giảng của Cha Đắc Lộ, và
tôi lo việc rửa tội cho người lương tại nước này, tôi là Kitô hữu từ nhiều năm
nay, và tôi sẵn sàng hiến mạng sống vì Đạo Chúa Kitô mà tôi tuyên xưng”. Và Ông
Nghè Bộ bảo Thầy hãy từ bỏ Đạo Chúa Kitô, Đạo mà Thầy gọi là đạo mới, rồi ông
sẽ tha mạng cho Thầy, nhưng Thầy đáp: “ Tôi sẽ không làm điều như thế, và nếu
Quan muốn giết tôi, tôi sẵn sàng trả bằng mạng sống món nợ của tôi đối với
Thiên Chúa và là Đấng Tạo Thành tôi”.
Vị tử đạo vẫn hướng mặt lên trời, ngã về phía
bên phải, miệng vẫn kêu tên Giêsu Maria nhiều lần; và khi Thầy còn ở trong tình
trạng đó, một trong những người lính cầm đao, chém đứt cổ trong lúc vị tử đạo
còn sống, và Thầy tiếp tục kêu tên cực trọng Giêsu Maria, và chính tôi thấy
điều này : sau khi cổ Thầy bị chém lìa, người ta vẫn còn có thể nghe được tên
Thánh Giêsu Maria, trong hơi thở vọt ra với máu.
Và ngoài ra, tôi tuyên bố rằng trước khi bị
dẫn tới nơi tử đạo, trong lúc còn bị giam trong tù, Thầy Anrê đã nói với đông
đảo tín hữu Kitô hiện diện: “ Anh chị em hãy can đảm lên và hãy kiên trì, đừng
sợ thấy tôi phải chết. Tôi không chết vì một tội nào đã phạm, nhưng chính vì
tôi là Kitô hữu, và vì tôi dạy Đạo Chúa Kitô. Và tôi trả bằng mạng sống món nợ
của tôi đối với Chúa Giêsu”.
Nhân chứng III : Antonio Pecanha de
Mendonca :
Trước mặt Quan Nghè Bộ, Thầy
Anrê đã can đảm tuyên xưng nhiều lần rằng: “ Tôi là Kitô hữu, và tôi luôn sẵn
sàng hiến mạng sống vì Đạo Chúa Kitô”.
... Bấy giờ một đao phủ khác, hay người lính,
đến gần, tay cầm đao, và chém lìa cổ Thầy Anrê, trong khi Thầy luôn cương quyết
và đầy lòng kiên trì, miệng luôn kêu tên Giêsu và Maria, cho đến khi người ta
chém đầu Thầy. Và Thầy vẫn luôn nói rằng mình không chết vì là trộm cắp hay vì
đã phạm một tội ác nào khác, nhưng chỉ vì mình là Kitô hữu. Thầy dùng tiếng Bản
xứ để khuyên các tín hữu Kitô khác hãy vững tin, và đừng sợ vì cái chết của Thầy.
Tất cả những điều đó, tôi đã nghe được, và những người hiện diện đã giải thích
cho tôi điều đó.
Nhân chứng IV : Manoel da Fonseca :
Tôi đã thấy Thầy ở trong một
ngôi nhà tranh có lính canh gác, và cổ đeo gông. Thực vậy, trước đó, Thầy
đã trả lời với Quan Nghè Bộ: “ Tôi là Kitô hữu, và nếu vì điều này mà tôi đáng
bị hình phạt nào, thì tôi sẵn sàng”.
Trong lúc ấy (khi hành
quyết), Thấy Anrê quỳ xuống, mắt hướng về trời. Điều ấy tôi thấy tận mắt ; và
tôi đã nghe những người đứng gần Thầy kể lại rằng Thầy đang kêu tên cực trọng
Giêsu và Maria.
Bản án được thi hành, và
được tuyên bố, chỉ vì lý do Thầy Anrê là Kitô hữu, chứ không phải vì Thầy đã
phạm một tội ác nào. Và chính Thầy Anrê đã tuyên bố công khai điều đó, và cả
tôi cũng đã nghe Thầy Anrê tuyên bố: “ Tôi chết vì là Kitô hữu, chứ không phải
vì tội ác nào đã phạm”.
Nhân chứng VI : Domingos
Rodrigues :
Lúc người ta muốn trói Thầy
lại, Thầy nói: “ Xin đừng trói tôi, tôi là Kitô hữu và tôi không chối bỏ điều
ấy, và vì thế tôi sẽ không chạy trốn đâu”. Cũng vậy, tôi nghe những người
Bồ Đào Nha nói rằng khi bị điệu tới Kẻ Chàm, trước mặt Quan Nghè Bộ, Thầy Anrê
đã công khai tuyên bố trước mặt quan mình là Kitô hữu và sẵn sàng chịu mọi hình
phạt vì điều ấy.
Và trong khi Thầy Anrê vẫn tiếp tục kêu tên
cực trọng Giêsu và Maria... Thầy khuyên bảo những người hiện diện rằng: “ Tôi
rất vui mừng và mãn nguyện được chết vì là Kitô hữu ; đây không phải là chết,
nhưng là được sống đời đời, và nếu có ai trong anh chị em bị cùng số phận như
vậy, thì hãy hết sức cảm tạ Thiên Chúa, và hãy kiên cường trong niềm tin nơi
Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tôi cũng đang tuyên xưng đây”.
Thầy Anrê đã bị sát hại chỉ
vì Thầy là Kitô hữu, chứ không phải vì một tội ác nào khác đã phạm ; đó là điều
mà chính Thầy Anrê đã tuyên bố công khai, và Thầy cũng nói trước khi chịu chết:
“ Tôi chết trong tư cách là Kitô hữu, chứ không phải vì tội ác nào cả”.
Nhân chứng VII : Agostinho da Silva :
Khi (Quan Nghè Bộ) hỏi Thầy
xem có phải là Kitô hữu không, Thầy can đảm tuyên xưng điều đó và nói: “ Tôi
sẵn sàng nhận mọi hình phạt người ta muốn giáng cho tôi chỉ vì tôi là Kitô
hữu”. Thầy khuyến khích và khuyên bảo các tín hữu Kitô khác hiện diện: “ Anh
chị em đừng buồn vì cái chết của tôi, bởi lẽ tôi không chết vì một tội ác nào
đã phạm, nhưng chính vì tôi là Kitô hữu; và anh chị em hãy kiên cường trong đức
tin”.
Nhân chứng XIV : Pero Pinto de Figueiredo :
Trước mặt quan, Thầy đã can đảm
tuyên xưng: “ Tôi là Kitô hữu, và lý do này tôi sẵn sàng hiến mạng sống vì Chúa
Kitô”.
Thầy đã bị kết án tử hình
chỉ vì là Kitô hữu, và vì đã can đảm tuyên xưng mình là Kitô hữu. Và chính tôi,
tôi đã thấy rằng Thầy Anrê hài lòng và tuân phục ý Chúa, chấp nhận chết vì đức
tin thánh và vì Đạo. Và tất cả những điều ấy, chính tôi đã thấy, vì tôi có mặt
lúc đó, và tôi đã nói chuyện với Thầy Anrê trong nhà tù nơi Thầy bị giam giữ.
Thầy bị giết chết bằng những
ngọn giáo và bị chém lìa cổ ; trong lúc ấy, Thầy Anrê tiếp tục kêu tên Giêsu và
tuyên xưng niềm tin nơi Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta cho đến khi chết ; và
trước đó, Thầy đã khuyên bảo các tín hữu Kitô có mặt hãy kiên cường trong đức
tin.
Trung thành với Chúa Giêsu, và với “căn cước Kitô hữu” cho đến chết đó chẳng
phải là một linh đạo tuyệt vời sao. Và chúng ta còn thấy gì nữa trong “Tình yêu
đáp trả tình yêu của Ngài”.
B/. MỘT TÌNH YÊU CAN ĐẢM ĐÓN
NHẬN THẬP GIÁ :
Nếu ngôn ngữ của ca dao Việt nam đã từng diển tả một nét đẹp tuyệt vời
của tình yêu:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông
cũng lội, cửu thập đèo cũng qua…
Chàng ơi cho thiêp theo cùng,
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam,
thì chúng ta cũng khám ra ra trong tình yêu
của Á Thánh Anrê dành cho Chúa Giêsu và Nhiệm Thể của Ngài đó là “Một tình yêu
can đảm đón nhận thập giá”.
Chúng ta lại trở về với các
nhân chứng trong cuộc điều tra phong thánh cho Ngài :
Nhân chứng V: Antonio Mendes :
“Thầy Anrê đã trả lời
quan một cách rất can đảm : “ Tôi là Kitô hữu, và tôi
rất sẵn sàng hiến mạng vì Chúa Kitô”. Và lời tuyên xưng đức tin này đã làm cho
quan nổi giận, ông giam Thầy vào tù với gông mang trên cổ. Bản án này, Thầy
Anrê chấp nhận với nét mặt hân hoan và tươi cười; Thầy nói: “ Tôi rất mãn
nguyện vì được trả món nợ của tôi đối với Đức Giêsu Chúa chúng ta”.
Nhân chứng XVIII : Luis de Brito :
Quan Nghè Bộ hỏi xem Thầy
Anrê có phải là Kitô hữu không và Thầy can đảm đáp: “ Vâng,
tôi là Kitô hữu và tôi sẵn sàng chết vì Đạo Chúa Kitô”.
Thầy đã bị một người lính
dùng những nhát giáo đâm thâu qua và một người lính khác chém lìa cổ. Trong lúc
ấy, Thầy tiếp tục tuyên xưng đức tin nơi Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và khuyên
bảo các tín hữu Kitô khác hãy kiên cường giữ vững đức tin.
Nhân chứng XIV : Pero Pinto de Figueiredo :
Trước mặt quan, Thầy
đã can đảm tuyên xưng: “ Tôi là Kitô hữu, và lý do này tôi sẵn sàng
hiến mạng sống vì Chúa Kitô”.
Thầy đã bị kết án tử hình
chỉ vì là Kitô hữu, và vì đã can đảm tuyên xưng mình là Kitô hữu. Và
chính tôi, tôi đã thấy rằng Thầy Anrê hài lòng và tuân phục ý Chúa, chấp nhận
chết vì đức tin thánh và vì Đạo.
Với 4 nhân chứng vừa nêu, chúng ta đều thấy trong các lời chứng của họ đều có
từ “Can Đảm” khi nhắc đến cuộc tử đạo của Á Thánh Anrê.
Ước gì ngày hôm nay, nhân đức “can đảm” nầy tồn tại và phát triển nơi tất cả
chúng ta, đặc biệt nơi giới trẻ, nơi các gia đình trẻ. Bởi chưng, chúng ta đang
sống trong một môi trường xã hội mà sự “sợ hải” thường xuyên đe dọa và muốn
triệt tiêu niềm hy vọng và vui sống. Sợ sinh nhiều con, sợ mất việc làm, sợ thi
rớt, sợ thiếu ăn thiếu mặc, sợ khổ, sở bệnh, sợ phản bội, sợ bỏ rơi, sợ mất
tình, mất của…
Nếu Đức Cố GH G.P II đã từng hiệu triệu Dân Chúa và nhân loại : “Anh chị em
đừng sợ”, thì trên 300 năm trước, người thanh niểm Việt nam Anrê Phú Yên cũng
đã nói với chúng ta : “Anh em hãy can đảm giữ nghĩa cùng Chúa Giêsu, cho đến
hết hơi, cho đến trọn đời…”
Và để có một “tình yêu can đảm” đó, chắc chăn Anrê đã luôn sống trong một cung
cách ứng xử rất nhân bản, rất tình người. Và đó chính là nét đặc trưng thứ ba
trong “tình yêu đáp trả của Ngài” :
C/. MỘT TÌNH YÊU BIẾT ƠN VÀ ĐÁP TRẢ :
Tình yêu của Anrê Phú Yên
dành cho Chúa Giêsu là một tình yêu hiếu thảo, biết ơn, một tình yêu sẵn sàng
đáp trả đến tận cùng :
Chúng ta nhận ra điều đó qua các chứng từ sau :
Di chúc thiêng liêng sau cùng Của Á Thánh Anrê
Phú yên :
“Hỡi anh em, đối với Chúa Giêsu yêu dấu của
chúng ta, chúng ta hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu. Chúa đã chịu chết
đau khổ vì chúng ta, nên chúng ta hãy lấy mạng sống đáp đền
mạng sống…Anh chị em thấy rõ tôi đây bị bắt và sắp phải chết, chẳng phải vì
ăn cướp, giết người, hay làm thiệt hại ai, mà vì tôi đã nhìn nhận Chúa Tể trời
đất và Con Một Người xuống thế chịu chết chuộc tội cho chúng ta. Mọi sự chúng
ta có đều do nơi Người. Thế mà người ta lại muốn tôi xúc phạm đến Người. Tôi
chẳng sợ bất cứ hình phạt nào người ta bắt tôi phải chịu, tôi chỉ sợ lửa hỏa
ngục đời đời là hình phạt dành cho kẻ từ chối không tin thờ Chúa Giêsu Kitô là
Đức Chúa Trời thật. Hỡi anh chị em, hãy coi chừng, đừng từ chối ơn Đức Chúa
Trời muốn ban cho anh chị em, phải liệu sao cho khỏi bị xử phạt đời đời”.
“Hỡi anh chị em, ta hãy trung tín cùng Đức
Chúa Trời cho đến chết ; cho đến chết, không một điều gì có thể dập tắt lòng
thương mến Chúa Giêsu Kitô trong trái tim ta”.
“Hỡi anh chị em, chúng ta hãy giữ nghĩa cùng Đức Chúa
Giêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời”.
Bản tường trình của Cha Đắc Lộ :
“Người ta cũng nhận
xét điều này : Thầy Anrê nhiệt thành chỉ nghĩ đến một điều : Cầu xin Chúa
ban cho mình được ơn lấy tình yêu đáp trả tình yêu cho đến cùng; vì vậy, Chúa
đã muốn rằng qua năm vết thương, Thầy cũng hiến mạng sống vì tình yêu Chúa,
Đấng đã từng bày tỏ tình yêu vô biên đối với chúng ta qua năm vết thương cực
trọng mà Ngài đã muốn chúng được ghi khắc trong thân xác cực thánh của Ngài.”
“ Tôi hết sức mong đợi mọi người
trên thế giới được biết người đầy tớ tuyệt diệu của Chúa, để thúc đẩy họ nhận
biết và yêu mến Đấng bạn trẻ này đã yêu mến đến chịu chết vì Người.”
Nếu “biết ơn” và “đáp trả” như là thái độ hiếu thảo dành cho Thiên Chúa, một
thái độ không thể thiếu trong đời sống đức tin mà Đức Kitô đã từng nhắc nhở :
“Còn chín người kia đâu, sao không thấy tạ ơn Thiên Chúa…?” ; thì Á thánh Anrê
Phú Yên còn nêu bật một thái độ, một nhân đức khác nhắm tới quan hệ người với
người, bắt nguồn từ chính mẫu gương của Thầy Chí Thánh Giêsu khi Người cúi
xuống rửa chân cho các tông đồ. Vâng, tình yêu đáp trả của Á Thánh Anrê Phú Yên
chính là một “tình yêu khiêm hạ, phục vụ”.
D/. TÌNH YÊU KHIÊM HẠ,
PHỤC VỤ :
Thật vậy, những giá trị của
Tin Mừng, của Tám Mối Phúc Thật đã được Anrê Phú Yên viết lại bằng chính cuộc
sống giữa đời thường, đó là khiêm hạ, khó nghèo, phục vụ...
SẮC LỆNH CỦA BỘ PHONG THÁNH TUYÊN PHONG CHÂN
PHÚC hay là BẢN TUYÊN BỐ VỀ CUỘC TỬ ĐẠO CỦA TÔI TỚ CHÚA ANRÊ Thầy giảng giáo
dân ( khoảng 1625- 1644) :
Thầy đã được nhận vào trong
tổ chức của Cha với tư cách là giáo lý viên(Thầy giảng) và Cha đã giúp Thầy
kiên trì trong đức tin. Ngày 31.07.1643, cùng với một số đồng bạn, Thầy tận
hiến đi phục vụ Giáo Hội suốt đời, tức là nhập tổ chức một số giáo dân chuyên
cần đi giúp các Linh mục trong việc truyền giáo, hay là- trong trường hợp cần
thiết, khi không có Linh mục- họ lo bảo toàn tín ngưỡng của giáo dân và cổ võ
người bên lương trở về tòng đạo. Anrê, Tôi tớ Chúa, tiến bước rất mau trên con
đường trọn lành : khiêm tốn, công minh và bẩm tính sẵn sàng phục vụ tha nhân,
nhất là những người đau ốm. Cha Đắc Lộ, biết rõ Anrê, đã minh chứng : “ Tôi có
thể quả quyết chưa gặp một tập viên, hay một tu sĩ nào đã nuôi những tư tưởng
cao đẹp và có tâm hồn trong trắng như thế.”
ANRÊ PHÚ YÊN VÀ GIÁO HỘI VIỆT NAM (Lm. Dương
Hữu Nhân, (Roland Jacques) OMI
Bản tường trình của Cha Đắc Lộ :
Một năm sau, Anrê xin được
thu nhận vào nhóm các thầy giảng giáo lý do cha Đắc Lộ mới thành lập. Vì tuổi
còn trẻ, cần phải được hoàn tất chương trình đào tạo, Anrê được gửi gắm cho vị
quan thuộc nhóm thầy giảng tên là Inhaxiô, một người được vị thừa sai tin cậy
và là trụ cột của cộng đồng công giáo còn non trẻ. Anrê tiến triển vượt bậc
trong việc học các kinh sách truyền thống, nhất là về đức tin Kitô giáo, đồng
thời đảm nhận những công việc thấp hèn nhất để phục vụ nhà Chúa và luyện tập
công tác giảng dạy.
Lm. Phaolo Molinari S.J, Thỉnh ngyện viên án
phong chân phước cho Thầy Giảng Anrê :
“Khi để ý tới những
điều đó, ta sẽ không ngạc nhiên khi đọc thấy một số nhân chứng kể lại trong
cuộc Điều Tra về sự tử đạo của Thầy Anrê. Một số nhân chứng ấy đã ba lần gặp
Thầy Anrê trong nhà của cha Đắc Lộ, nhân dịp họ du hành đến Đàng Trong; vì thế,
họ có thể quan sát cách thức Thầy phục vụ cộng đoàn ở Hội An ; lòng nhiệt thành
xả thân của Thầy, với tất cả lòng trung thành và hăng say, trong việc giảng dạy
đức tin Kitô cũng như trong việc cử hành phụng tự của nhóm các tín hữu. Rồi
chính Thầy cũng được nhiều người biết đến như một tín hữu Kitô siêng năng lãnh
nhận bí tích Thống Hối và Thánh Thể.”
Trong một thế giới mà “chủ nghĩa cá nhân” và cuộc sống bon chen ích kỷ đã trở
thànhnhư một qui luật ứng xử thông thường, thì “tình yêu phục vụ” của Á Thánh
Anrê Phú Yên hôm nay vẫn sáng lên như “viên ngọc quí”, như đuốc sáng, như sao
mai soi rọi cho muôn người, cho tất cả chúng ta.
Và chúng ta cũng biêt rằng : “cách cho luôn quí hơn của cho”, cách phục vụ vẫm
có giá trị hơn hành vi phục vụ nhỏ hay to, nhiều hay ít. Và cái
cách mà Á
Thánh Anrê Phú Yên chọn lựa để phục vụ anh chị em chính là “NIÊM VUI”. Và như
thế, chúng ta lại khám ra ra : Tình yêu đáp trả của Anrê dành cho Chúa Giêsu và
anh chị em mình là :
E/. MỘT TÌNH YÊU VUI TƯƠI
:
Vui tươi được làm con Chúa,
vui tươi phục vụ anh em, cộng đoàn, vui tươi cử hành pbụng vụ và nhất là vui
tươi bước ra pháp trường để hiến dâng mạng sống vì tình yêu...
Nhân chứng I : João de Rezende de Figueiroa :
“Vì thế, Quan đã tuyên án
tại Kẻ Chàm, và Thầy Anrê hân hoan chấp nhận. Chính tôi thấy Thầy Anrê và tôi
đã nói chuyện với Thầy tại nơi giam giữ. Tôi làm chứng rằng Thầy rất hài lòng
vì tin người ta mang tới cho Thầy về việc Thầy phải chết.
Khi lý hình tháo gỡ gông ra khỏi cổ, Thầy Anrê
tuyên bố: “ Tôi chết rất sung sướng, bởi lẽ tôi hiến mạng sống vì Đấng đã ban
mạng sống cho tôi; và tất cả mọi người nên biết rằng tôi không chết như một tên
trộm, cũng không phải vì tội ác nào cả, nhưng chỉ vì tôi là Kitô hữu”.
LM. Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ :
“Tôi nhớ đến anh, một người
trẻ vui khi bị bắt, vui khi bị hành hình. Anh không phải là một triết gia lạnh
lùng trước sự sống và cái chết. Anh có một niềm hy vọng. Khi theo đạo, anh bước
theo Đức Giêsu. Khi nhập Hội Thầy Giảng, anh muốn trở thành cộng sự viên của
Chúa. Khi tử đạo, anh hân hoan thấy mình nên giống Chúa trên thánh giá. Đức
Kitô đã phục sinh : đó là hy vọng duy nhất của anh. Anh vui vì tìm được niềm hy
vọng. Anh vui hơn vì dấn thân với niềm hy vọng. Anh vui nhất khi đạt được niềm
hy vọng. Anh trở thành chứng nhân của niềm hy vọng. Những lời cuối cùng từ
miệng anh, từ lòng anh, là Chúa Giêsu. Tôi hiểu hết. Đó là trái tim của anh.
Nhìn mọi sự nhạt nhòa đi,
tôi thấy anh nổi bật, ít là trong lòng tôi, giữa những người trẻ đã bước theo
Đức Giêsu đến cùng : Tôma Thiện, Anrê Trông, Giuse Tuân... Và cả những Luy
Gonzaga, những Têrêsa Hài Đồng nữa.”.
Trên mọi nẻo đường phục vụ hôm nay, cần thiêt biết bao những niềm vui, những nụ
cười như Á Thánh Anrê Phú Yên để xoa dịu đi bao nổi nhọc nhằn, để xóa tan đi
bao nhiêu sàu oán, để đẩy lùi đi bao nhiêu ghen ghét giận hờn…Niềm vui của Đức
Cố Giáo hoàng G.P., của mẹ thánh Têrêxa Calcutta phải chăng cũng “sắp hàng”
trong con đường phục vụ của Anrê Phú Yên như thế !
Và chính từ niềm vui phục vụ đó, một sức mạnh, một nghị lực mới được trao ban
để Anrê Phú Yên có được “một tình yêu loan báo Tin mừng”, một tình yêu nỗ lực
truyền giáo.
F/. MỘT TÌNH YÊU LOAN BÁO
TIN MỪNG :
Một tình yêu đích thực dành
cho Chúa Giêsu luôn luôn phải dẫn tới hành vi loan báo, truyền giáo. Quả thật
“tình yêu Chúa Kitô đã thôi thúc Anrê Phú Yên”
SẮC LỆNH CỦA BỘ PHONG THÁNH, TUYÊN PHONG CHÂN
PHÚC hay là BẢN TUYÊN BỐ VỀ CUỘC TỬ ĐẠO CỦA TÔI TỚ CHÚA ANRÊ Thầy giảng giáo
dân ( khoảng 1625- 1644)
“Vì Thầy khẩn khoản van xin,
và nhờ uy tín người mẹ, một tín hữu ngoan đạo, Thầy đã được nhận vào trong tổ
chức của Cha với tư cách là giáo lý viên(Thầy giảng) và Cha đã giúp Thầy kiên
trì trong đức tin. Ngày 31.07.1643, cùng với một số đồng bạn, Thầy tận hiến đi
phục vụ Giáo Hội suốt đời, tức là nhập tổ chức một số giáo dân chuyên cần đi
giúp các Linh mục trong việc truyền giáo, hay là- trong trường hợp cần thiết,
khi không có Linh mục- họ lo bảo toàn tín ngưỡng của giáo dân và cổ võ người
bên lương trở về tòng đạo. Anrê, Tôi tớ Chúa, tiến bước rất mau trên con đường
trọn lành : khiêm tốn, công minh và bẩm tính sẵn sàng phục vụ tha nhân, nhất là
những người đau ốm. Cha Đắc Lộ, biết rõ Anrê, đã minh chứng : “ Tôi có thể quả
quyết chưa gặp một tập viên, hay một tu sĩ nào đã nuôi những tư tưởng cao đẹp
và có tâm hồn trong trắng như thế.”
Bản tường trình của Cha Đăc Lộ:
“Thầy bước đi giữa toán
lính, người thì mang giáo, người khác mang đao; và trên đường đi, Thầy Anrê
phúc lộc lên tiếng dạy dỗ họ và chỉ cho họ con đường về Quê Trời. Tới nơi xử
hồng phúc, Thầy Anrê tốt lành quì ngay gối xuống ; Thầy chào từ giã các tín
hữu, đồng thời khuyên bảo họ hãy trung thành với Thiên Chúa và tín thác
trong niềm tin, “để bảo toàn tình bạn với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng và cho
tới muôn đời”; đó cũng là những lời Thầy lập đi lập lại nhiều lần.”
*********
Thay lời kết :
Hội Thánh là một vườn hoa muôn hương muôn sắc. Trong cuộc hành đức tin của Dân
Chúa suốt 2000 năm đã ghi dấu bao nhiêu chứng từ sống động về đức tin, đức cậy,
đức mến, về tình yêu dành cho Chúa Kitô, về những giá trị của Tin Mừng được
khắc họa bằng chính cuộc sống của bao thế hệ Thánh Nhân. Chúng ta hãnh diện ở
giữa lòng Hội Thánh Việt Nam, cũng đã có bao nhiêu người con ưu tú đã góp phần
làm cho vườn hoa Giáo Hội thêm sắc thêm hương, trong đó, Á Thánh Anrê Phú Yên
đã nổi bật lên như một vì sao sáng. Để cảm nhận một cách sâu sắc chân lý nầy,
và cũng để một lần nữa thắp nén hương tưởng niệm “Người Chứng Thứ Nhất”, Anrê
Phú Yên anh hùng, chúng ta có thể ngâm với nhau bài thơ “Bất Diệt” :
Có những trái tim muôn đời vẫn đập,
Vẫn sáng qua bao thế kỷ mịt mù.
Dù mưa đông hay gió lạnh chiều thu,
Dòng máu thắm nhịp đều theo tiếng thở.
Có những bước chân muôn đời ghi nhớ,
Núi không quên và sông vẫn ngắc hoài.
Bước ngày xưa về đổ lại hôm nay
Cho quán vắng sáng lên niềm hy vọng
Có những ánh sao muôn đời vẫn sáng
Đêm qua đêm thức mãi hẹn người về.
Sao gọi ai bừng tỉnh giữa cơn mê
Khăn gói bước lên đường theo dấu cũ.
Có những ý thơ đã đi vào tuyệt đối,
Thơ kết bằng muôn giọt máu tin yêu.
Lời thơ vang theo tiếng nhạc dặt dìu,
Đang vẫy gọi hồn ai theo lý tưởng.
Vâng, tất cả đã trở thành thần tượng,
Những con người sống trọn nghĩa Chứng Nhân,
Đem máu tim đền đáp nghĩa thiên ân,
Viết khúc nhạc tình yêu bằng hy tế.
Những người ấy qua muôn ngàn thế hệ,
Vẫn sáng lên như tinh đẩu rạng ngời.
Như đuốc thiêng bừng sáng khắp muôn nơi,
Những người ấy, CHỨNG NHÂN, muôn đời bất diệt…
Nhân ngày Khánh thành Trung
Tâm Mục Vụ tổng hợp Anrê Phú Yên
Tuy Hòa, 16.02.2006
Lm. Jos. Trương Đình Hiền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét