Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Chủ Nhật, 23 tháng 9, 2012

Hàn Mạc Tử, anh là ai


Nơi yên nghỉ của thi sỹ Hàn Mặc Tử (Ảnh: Internet)

Chế Lan Viên


Bây giờ Hàn Mặc Tử nằm trên một điểm cao Gành Ráng đối diện với bể Đông, bể chói loà như thơ Anh và giông bão tựa đời Anh. Nằm với trăng sao như Anh từng mơ ước.
                               Với sao sương anh nằm chết như trăng
Dưới kia là thành phố Qui Nhơn (những thành phố miền Trung thường có các nhà thơ ở trong và biển mé ngoài) - thành phố của mẹ già nuôi anh "cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới thế", của chị Lễ "Chị cũng trăng mà em cũng trăng", của em Hành đem cơm cho anh trong suốt bốn năm trời anh phung hủi, và trước khi vào Quy Hoà để qua đời trong đó, nghe đâu, Tử đã sụp lạy cảm ơn em. Qui Nhơn, thành phố của bạn bè, của bóng dáng tên tuổi những người yêu, cũng là nơi Tử phải trốn chui trốn nhủi để khỏi bị bắt đưa vào trại cùi trong núi. Nhưng Qui Nhơn đối với Nghĩa Bình, đối với cả nước là nơi anh viết những trang thơ ngời chói, máu và nước mắt đời anh đã khác xa, đã biến hoá, đã hoá kiếp, thăng hoa, kết tụ thành trăng sao.
                               Chỉ có trăng sao là bất diệt
                               Cái gì khác thảy đi qua
Thôi cả cuộc đời bi thảm của Tử kia, dù bi thảm đến đâu thì cũng đã trải qua rồi. Cái còn lại là những bài thơ đã từ thời anh đi thẳng vào "thời đại lớn" (chữ của Báctin), rồi hôm nay từ "thời đại lớn" ấy về với thời chúng ta.
                               Một mai kia ở bên khe nước ngọc
                               Với sao sương anh nằm chết như trăng
                               Không tìm thấy nàng tiên mò đến khóc
                               Đến hôn anh và rửa vết thương tâm
Bậy nào, sao lại không. Hôm nay có hàng vạn rồi hàng chục vạn tấm lòng đến cùng Tử đấy.
Tôi không muốn nhắc lại cuộc đời của Tử, vì người ta đã viết thêm quá nhiều, và cũng viết bớt quá nhiều. Viết bậy càn lắm lắm. Ở thành phố Hồ Chí Minh, trên xe buýt hiện nay, mỗi lần tôi đi xuống phố lại được nghe Hàn Mặc Tử, tình nhân và bạn bè anh đang ca vọng cổ, xuống xề trong các băng nhạc cũ lâm ly. Nói chi các quyển sách, vở kịch, tranh truyền hình, tiểu thuyết nữa, khai thác, ly kỳ, huyền thoại hoá đời anh, đến nỗi một tờ báo Sài Gòn cũ cũng không chịu nổi phải kêu lên "Hàn Mặc Tử đã chết rồi, xin chớ giết ông lần nữa". Năm ngoái, một nhà báo ở Hà Nội vào đến tận Qui Nhơn làm hai trang dài về Quy Hoà còn viết bậy. Chả là trước khi đến thăm mộ Tử phải qua một cái dốc, mà không hiểu sao ai đó đã chả nghiên cứu gì về Tử hết, lại đặt tên là dốc Mộng Cầm. Nhà báo trung ương liền tự hào về "nhân dân ta đã biết một người chung thuỷ". Theo nhà báo thì chị M.C đã về Quy Nhơn nuôi Tử và "tuy yêu mà vẫn sợ nên nàng lấy một cái cặp dài, cặp một loong cơm mà đưa cho thi sĩ. Thi sĩ không tự tử là may lắm". Cậu thi sĩ không tự tử là may lắm không phải là câu tôi bình luận nhà báo kia đâu. Chính là của nhà báo đề cao người yêu Tử đấy. Thì ra cái vị báo này không đọc sách, nghe cải lương và xem báo nữa kia.
Tôi không trở lại đời riêng của Tử, ai đã yêu Anh ngắn ngày, ai đã yêu Anh dài hạn, và ai Anh chỉ yêu cái bóng, ai Anh yêu cái tên vì chưa thấy mặt bao giờ. Tôi nghĩ bây giờ sống dậy, gặp tất cả những người đẹp ấy, chắc có lẽ anh đều biết ơn, người này cho anh ân nghĩa, người kia cho anh vết thương, và chính vì từ vết thương mà con trai đáy bể làm ra viên ngọc. Tôi cũng không vào cuộc đời (gọi là cách mạng đi) của Tử.
... Cuộc đời cách mạng, mà Anh không tự biết là cách mạng ấy, còn dài hơn cả thời gian Rumbaud, Verlaine, Baudelaire và cả Hugo tham gia Ba Lê Công xã Pháp, Tử, biệt hiệu Phong Trần, từ những năm 30-31 đã được cụ Phan Bội Châu ca ngợi, hoạ thơ cùng. Cụ viết đại ý "Tử về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn quốc âm song chưa được bài nào hay đến thế. Hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp gỡ bắt tay cười to một tiếng cho thoả hồn thơ đó". Tử đã ra Huế thăm cụ bị mật thám Pháp theo dõi, và do thế bị gạch tên trong danh sách những người đi Pháp học. Vào Sài Gòn làm báo, Tử dịch thơ tình của Mác, bênh vực Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan. Về Qui Nhơn, khi cớm có bệnh hiểm nghèo, cuối 1936 Tử đã cộng tác cùng anh Nguyễn Minh Vỹ, đảng viên Cộng sản vừa ở tù ra, in giai phẩm Nắng xuân trong ấy có bài Ông Nghị gật, Tử đánh vào viện dân biểu thời Pháp thuộc.
Cho dù Hàn Mặc Tử có cuộc đời bệnh tật, cuộc đời tình duyên, cuộc đời cách mạng ly kỳ, dữ dội gấp trăm lần, nhưng ba hòn núi cao ấy chụm lại không đẻ ra được một cái cây, một bóng mát thơ nào, ba hòn núi ấy không đẻ ra được con chuột nhắt thơ nào thì việc gì ở đây ta cũng phải dông dài. May thay Tử là một đỉnh cao, loà chói trong văn học của thế kỷ, thậm chí qua các thế kỷ. Cho nên cũng không mất công đâu khi vì văn Anh mà tìm hiểu thân thế, đời Anh.
Hàn Mặc Tử có tài rất sớm. Tản Đà đã định khen thơ Anh trên báo nhưng rồi tiên sinh qua đời. Làm một bài như bàiCửa sổ đêm khuya đọc lui, đọc ngược sáu cách, Tử rất giỏi:
                               Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
                               Lạ cảnh buồn thêm nợ vấn vương
                               Tha thướt liễu in hồ gợn bóng
                               Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
                               Xa người nhớ cảnh tình lai láng
                               Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
                               Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
                               Hoạ đàn sẵn có dế bên tường.
Đọc xuôi, đọc ngược, bỏ hai chữ đầu đọc xuôi, bỏ hai chữ cuối đọc xuôi, bỏ hai chữ đầu đọc ngược, bỏ hai chữ cuối đọc ngược. Tử làm bài ấy lúc 17, 18 tuổi, cũng là một cách xem thường tài vua Tự Đức "chả mấy giỏi" hơn mình. Sau này, có lúc Tử tự xem mình là "vua nhà Nguyễn (Nguyễn Trọng Trí là tên Anh) bay trên mây", cái mầm mống phạm thượng biết đâu không bắt đầu từ lúc làm thơ thuận - nghịch - độc ấy.
Tử có rất sớm, trong khuôn khổ gò bó trói voi bỏ rọ của thơ Đường luật mà có, cái khả năng Thương - thanh - khí hoá (tên một tập thơ của Anh về sau), tâm thưởng tâm hồn hoá:
                               Tương tư mộng thấy năm canh mộng
                               Luyến ái trời vương bốn phía trời
Cái khả năng thế - tục - hoá, da - thịt - hoá:
                               Bóng nguyệt leo song, sờ sẫm gối
                               Gió thu lọt cửa cọ mài chăn
Khả năng kỳ ảo, ma  - quái - hoá cũng xuất hiện rồi:
                               Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt
                               Khép phòng đốt nến, nến rơi châu
Đấy không phải là thủ thuật, kỹ thuật, những cách bên ngoài. Hoặc, nếu là thế thì cũng nhờ có một cái cốt thế nào đó, một cấu trúc tâm hồn thế nào đó ở bên trong. Hàn Mặc Tử, lúc ấy còn lấy tên Phong Trần, tên Lệ Thanh, đi về, qua lại giữa trời và đất, cảnh và người, thực và hư... rất thoải mái. Hơi văn lúc thì thu cả cảnh vật vào trong đám chữ "Ngàn trăng bóng liễu trông xanh ngắt", lúc thì văn chương chữ nghĩa tuột ra khỏi lòng như một tiếng kêu, một ngọn gió, nhát dao: "Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt". Năng lực đàn hồi ấy cũng khá rõ ràng. Nhưng phải có cơn bão máu, trận hồng thuỷ tai ương, những động đất tâm hồn, những phun lửa tình yêu kinh khủng về sau, thì cái khả năng kia mới lên cái thế bình thương, rồi lập phương như ta thấy. Từ 1936 đến 1940, nghĩa là sau khi rời Sài Bòn, ra Gái quê, về Qui Nhơn thọ bệnh, cho đến lúc vào Qui Hoà và mất, Anh đã làm quá trình một thế kỷ về thơ (1935-1939 cũng là thời kỳ tôi học ở Qui Nhơn, giới thiệu dìu dắt tôi vào thơ là công Anh lúc đó). Từ một nhà thơ biền ngẫu theo lối cổ phương Đông. Anh đã hiện đại như những nhà thơ hiện đại nhất châu Âu. (Chỉ so với André Breton, ông tổ siêu thực không thôi cũng đủ thấy rõ). Hơn nữa, thiên hạ hiện đại bằng óc, bằng lời còn Anh thì bằng máu:
                               Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
                               Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
Văn học cần nói những vẫn đề chung, phổ biến cho nhân loại. Nhưng oái oăm chưa, nó lại đòi cái người nói đó là một cá nhân, một bản lĩnh, một sắc thái riêng, không giống ai, chỉ có một bản duy nhất, không lặp lại hai lần. (Nói thế chứ trong văn học người ta vẫn na ná nhau khối ra đấy!)) Hàn Mặc Tử thì không. Anh chỉ có một, thật. Như một Rimbaud của Pháp, một Holderlin của Đức, một Maiakovxky (trước cũng như sau Cách mạng tháng Mười) của Liên Xô.
Chúng ta cần có người tả trăng là trăng. Nhưng cũng có người vượt lẽ thói tập đoàn mà xẻ trăng ra làm hai nửa: Vâng trăng ai xẻ làm đôi (Kiều). Cần truyền thống lại cũng cần biến dị, ta nghèo đi cái điều đặc biệt, duy nhất người ấy nói ra).
                               Hôm nay có một nửa trăng thôi
                               Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
                               Ta nhớ mình xa thêm đứt ruột
Không phải ma thuật, kỹ thuật gì của óc đang lạm phát ngôn từ. Lòng có bị cắn đôi, đời có bị tan vỡ, tình có bị đứt đoạn, nghĩa là có một thảm sứ gì làm trữ kim, làm đảm bảo, thì mới có thể phát ra các từ kia.
Người Trung Quốc xưa đánh giá thơ nào thâm, nào chân, nào viễn, nào cao, nào tàn, nhiều thứ lắm. Tân là mới. Nhưng sau tân, lại còn tân của tân nữa, đó là kỳ (lạ).
                               Tóc dài ba nghìn trang
                               Vì sầu nên hoá dài
                               (Lý Bạch)
                               Bốn dây ứa máu Tỳ bà
                               (Tương An)
                               Và đêm nay hồn anh về ngủ thắt lưng em
                               (Ca dao H'mông)
Mái nhà dài như một tiếng chiêng. Tóc nàng dài đến nỗi thả ra thì xuống tận đất như một thác nước và che bóng râm như một cây K'nia
(Dân ca Tây nguyên)
hay khi Nguyễn Du tả ma:
                               Dầu dày từng bước in rêu rành rành
thì đều là kỳ đấy, đều là siêu đấy! Mà nào ta có mất thực đi đâu. Ta được nó một cách khác, ở một nhiệt độ, cường độ khác.
Người châu Âu đẩy cái kỳ đến cùng, và kỳ cùng chủ thì từ yếu tố nó thành chủ nghĩa. Chủ nghĩa siêu thực còn có tên là romantisme juisgu'au bout (chủ nghĩa lãng mạn đến cùng), rượu trên 100 độ. Thế là chết. Chúng ta chống chủ nghĩa siêu thực, chống siêu thực ở dạng ấy, ở độ ấy, trương lên thành ngọn cờ tướng chỉ huy ấy. Aragon Eluard, các vị tổ sư, tướng lĩnh từng phất ngọn cờ ấy, đã vứt nó, để trở thành người lính, rồi chủ soái trên thi đàn hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nhưng khi đã thành nguyên soái của thi đàn sau này, các ông vẫn sử dụng các yếu tố siêu thực, sử dụng siêu thực như yếu tố, cho cái hư ảo nó phục vụ hiện thực mình, và sung mãn hơn lên vì vậy: Chân chân chân, thật thật thật, nhưng lại còn đi với ảo ảo ảo nữa, Diệu ơi! Hàn Mặc Tử không phải là nhà thơ siêu thực. Trước sau Anh vẫn là lãng mạn, dùng nhiều yếu tố hiện thực, dùng nhiều yếu tố siêu thực: đó cũng là điều trước đây cha ông đã dùng. Nhưng chưa có ai dùng đậm đặc như Anh. Dù đó là Lê Thánh Tông ở Di thảo, Nguyễn Dữ ở Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Du ởChiêu hồn hay lúc tả Đạm Tiên. Sau này khônig biết có ai thừa kế Anh không? Cho nên nhìn trước nhìn sau, Anh là của hiếm ở đất nước luôn luôn cần tỉnh thức nên hoá ra quá tỉnh táo là đất nước mình. Trên thế giới thì lại khác! Cần chống lại với cái không khí duy lý đến cùng, duy lý đến cùn, duy lý quá quắt của thời đại máy móc, kỹ thuật, biểu đồ, thống kê, công thức này. Các nhà văn châu Âu hiện nay rất mê chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo của châu Mỹ la tinh, trong đó các yếu tố kỳ, hư ảo, ma quái, huyền thoại, siêu thực đã được phát huy để nuôi hiện thực. Asturias, Carpentier, Marquez đã được đánh giá cao và hâm mộ ở Liên Xô. Tử  trong thời gian chúng tôi gần chỉ thấy Anh nói về Baudelaire, chớ Lautre'amont, Ge'rard de Neerval Anh cũng ít nói đến, nói chi là Breton. anh có biết hay không chủ nghĩa siêu thực? Chắc là không. Giờ bảo Anh có xa gần với cái họ hàng đầy biên động, thích biến dị, luôn biến hoá đó, có khi anh giận cũng nên! Anh chỉ nói:
                               Một mai tôi chết bên khe Ngọc Tuyền
                               Bây giờ tôi dại tôi điên
                               Chắp tay tôi lạy cả miền không gian
hay
                               Tôi điên tôi nói như người dại
                               Van lạy không gian xoá những ngày
Và anh giải thích vì đâu mà điên, bởi đâu mà dại: "nghĩa là tôi yếu đuối quá. Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên. Nàng đánh tôi đau quá. Tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú".
Càng chứng tỏ là siêu thực của Anh không phải từ sách vở ra, từ châu Âu đến, mà từ thảm kịch cảu Anh mà ra. "Nàng" ở đây không phải là cô con gái nào đâu! Nàng đau thương đấy. Tử thường đọc Baudelaire:
                               Sois sage ô ma douleur et tiens - toi plus tranquille
                               (Hãy ngoan hỡi em đau thương và em đứng yên nào!).
Tử bảo Anh khóc, Anh gào, Anh rú. Tử quên mất (và chúng ta cũng quên theo) là Anh cười nữa chứ.
                               Ha ha! Ta đuổi theo trăng
                               Ta đuổi theo trăng
                               Trăng rơi lả tả ngả trên cành vàng
hoặc
                               Hôm nay vui quá anh Phùng ơi
                               Cười nói làm sao cho hả hơi
Mà cười được thế là không điên đâu, chả dại chút nào! Anh chả thèm làm nhà thơ của sự chết, của Hư vô, như những người viện Heiđeger, viện Jaspeers, rồi dán cho anh nhãn hiệu có dấu âm, có hơi âm đấy.
Đầu câu bên này là tiếng cười ha ha, đầu câu bên kia lại là một cuộc đời bi thảm vào bậc nhất. Giá tiếng cười ấy đắt lắm, nặng đồng cân lắm, chứ đâu phải thứ nhởn nhơ cười, hể hả cười của chúng ta đâu.
Xin dâng này máu đang tươi
Này đây tiếng khóc giọng cười chen nhau
Ta có chịu nghe tiếng cười đắt giá đó không? Và có khôn lỏi ném tiếng khóc kia đi, hắt cái máu kia đi, chỉ lọc lấy có tiếng cười đưa vào Tuyển tập, đã vô trùng hoá. Nhưng lại nghe tiếng khóc kia, thì ta có bị nhiễm độc gì không? Ngược lại, giữ gìn bịt tai không nghe nó, thì ta có bị thiệt thòi gì?...
Ồ mấy chục năm trời đánh nhau với những tên giặc quỷ sứ khổng lồ, ta lắm lúc phải trị lấy ta rồi mới đánh được giặc. Luyện chúng ta từ bùn, từ bùn thành ra sắt thép là vô cùng cần thiết. Nhưng xong giặc rồi, cậu bé Phù Đổng, phải nhanh chóng trở lại làm hồn nhiên con trẻ chứ. Thế thì mới đủ sức hoá thành sắt thép kỳ sau. Đó là quy luật ức chế và hưng phấn của Pavlov thôi, chả có gì lạ.
Những năm tháng trọng đại đó, ta cần tỉnh thức nên sợ cả mộng mơ thiếp ngủ. Chỉ chợp mắt một tý thôi, có khi đê vỡ, giặc tràn. Huống nữa là cái đê tư tưởng! Đồng chí Lê Duẩn bảo: "Nhiều người, hai người, một người, cá nhân, lứa đôi, tập thể". Những năm ấy, không có tập thể, nhiều người thì mất mạng, nên có khi ta cảnh giác lúc chỉ có hai người, lúc trơ trọi một người. Tố Hữu mới viết: "Đêm cuối năm riêng một ngọn đèn" thì đã có nhiều người không muốn có riêngvà một ấy. Con người ta thích nó giữa đội - hình đồng - đội, tập đoàn, hơn thế lại là đội - hình - đang - chiến - đấu, và tập - đoàn - đang - sản - xuất. Ta ưa nó ở thế động, hành động, lao động với tất cả ý chí, reo hò, vỗ tay đôm đốp, và ta ngại nó khi tĩnh lặng, khi xúc cảm. Có xúc cảm thì cũng là xúc cảm phấn khởi, chữ hay chi cái xúc cảm buồn! Ôi, Tử ơi, thế mà Tử lại cùng cực đau buồn:
                               Ta trút linh hồn giữa lúc đây
                               Gió sầu vô hạn thổi trong cây
                               Còn em sao chẳng hay gì cả
Ta không hay, hoặc là không muốn hay, không dám hay. Ta không hay rằng con người gồm các vấn đề xã hội lịch sử mà ta quan tâm trước tiên là rất đúng, lại còn mỗi con người có một thân phận, một cuộc đời riêng. Mác hơn Karl Jaspers chỉ biết con người trong đau khổ, trong chiến đấu, trong tội lỗi, và đối diện cùng cái chết. Theo ông, đó là các điểm "cực" của kiếp người. Con người theo ông chỉ dao động thăng trầm giữa yêu thương và thù hận. Mác cũng cao hơn Phật, chỉ thấy sinh, lão, bệnh, tử và dao động thăng trầm bởi vô - thĩ tham sân si. Ôi, chết có tiên thì cũng sướng đấy. Bệnh mà thuộc một giai cáp quý tộc giàu sang thì cũng khỏi bệnh ngay.
Trăm năm trong cõi người ta, "hữu" tại thế, tại cõi thế này thì không phải chỉ sinh khổ, bệnh khổ, lão khổ, tử khổ mà còn không tiền nên khổ. Khổ vì tư bản, và tột cùng của chủ nghĩa tư bản là đế quốc, là nơtơrôn đó. Nhưng chỉ biết "tổng hoà các quan hệ xã hội" thì không hiểu Mác. Mác bảo: "Cái gì thuộc về người, với tôi đều không xa lạ". Thế mà Tử yêu, Tử đau, Tử bệnh tật, Tử ở trong cô đơn, Tử đối diện cùng cái chết, lại xa lạ với ta ư? Thảo nào Aragon hỏi :"Trăm năm sau người ta có biết Baudelaire không nhỉ". Và ông nổi cáu: Nếu người ta không biết Baudelaire thì cần có gì biết đến người ta"
                               Đo từ ngọn cỏ tới cung trăng
                               Những sợi hào quang vạn thước vàng
                               Bắt bắt thơ bay trong gió loạn
                               Để xem tình - tứ nặng bao cân
Ồ, tại sao tôi lại hình dung ra những nhà phi hành vũ trụ của ta như Phạm Tuân có thể đọc các câu ấy. Ở cái thời điểm này của nhân loại mà cái chết khinh khí nhiệt hạch có thể đến mọi nhà, mà chuyện cái thiên hà trăng sao cũng là chuyện của các cháu bé cấp một, thế thì Hàn Mặc Tử đâu có lạc lõng gì.
Trở lại vấn đề con người một tí. Vì nói gì thì nói, ở đâu, thơ văn nào, cũng là chuyện về nó đấy thôi. Một quyển sách nổi tiếng trên thế giới tên là "người, kẻ chưa ai biết ấy". Cố nhiên là biết, nhưng mới ở vòng ngoài. Nhìn ngoài nó liền một cục. Nhưng mà nó có một đâu. Khoa học bảo nó là hai ghép lại. Anne de Noailles thì bảo nó là vô số Coeu Innombrable nữa kia. Cố nhiên là ở nội tâm. Nói Cao Bá Nhạ tìm thấy "trong một mình bảy tám biệt ly" nghĩa là vẫn không phải là Một. Ở người, dưới nó còn có nó, bên cạnh nó lại có nó, đằng sau nó còn có nó (mà nó ngờ yêu tinh).
                               Bóng ai theo dõi bóng mình
                               Bóng nàng yêu tinh
                               Nụ cười như tiếng vỡ pha lê.
Hãy đi sâu vào thơ Tử, vào một tế bào của thơ Anh một chút. Gần năm mươi năm nay, ta đã động gì đán Anh đâu. Không khéo thì đây là dịp đầu tiên mất. Về vấn đề mình và ai, một mình hay hai mình đó, có lúc Tử viết:
                               Lụa trời ai dệt với ai căng
                               Ai thả chim bay đến Quảng Hàn
                               Kìa ai gánh máu đi trên tuyết
Và ở một bài khác:
                               Ai đi lẳng lặng trên làn nước,
                               Với lại ai ngồi khít cạnh tôi
                               Mà sao ngậm cứng thơ đầy miệng
                               Không nói không rằng nín cả hơi
L'homme cet inconnu, người, cái kẻ bí mật ta chưa biết hết ấy đây Hàn Mặc Tử đã kể cho Quách Tấn. Quách Tấn đã viết lên trên báo. Vì đây là một hiện tượng rất thật: Một đêm khuya vắng, một mình Tử còn ngồi ngắm trăng trên bể. Bỗng Anh thấy có một ai đó ngồi khít rịt bên Anh. Rồi từ người đó lại hiện ra người nữa. Rồi biến đi. Rồi thấy mặt bể đông lại như Tuyết. Trên bể có một người vạm vỡ mặc áo lông gánh hai thùng thiếc chạy băng băng. Từ hai thùng tung toé ra những máu là máu. Tử hoảng sợ chạy về nhà.
Raineer Maria Pilke, thi hào Tiệp và của cả thế giới kỷ này, khi viết Bi ca đo Đuynô (Ele'gie de Duino) đã chú thích: "đọc bởi một kẻ vô hình". Hoàng Trung Thông năm ngoái bảo tôi: "Mình uống rượu nhiều nên bị bệnh huyễn tưởng, mình nghe ai nói trong quạt máy" (Xin nói là anh vẫn cứ viết hay như thường, như thường) "Bệnh tâm thần", ta vội kết luận. Và đưa nó cho các nhà y học, phân tâm học. Hãy dừng lại đã. Tôi nhớ một ví dụ mà các nhà hiện tượng luận đồ đệ Husserl hay nhắc. Có một bệnh nhân nghe tiếng nói kiểu ấy. Bác sĩ không tin. Người bệnh cáu: "Tin hay không mặc ông, nhưng rõ ràng tôi nghe thấy". Các vở kịch viết về Jeanne d'Arê của Pháp đâu có loại việc nữ anh hùng "nghe" như trên. Mặc kệ y học, về thơ ta hãy thử đếm xỉa đến hiện tượng ấy. Nó là gì? Vì Tử đau yếu chăng! Không, theo tôi chính là Anh rất khoẻ, cái hồn thơ Anh rất khoẻ. Chả là cô đơn, chả là Hư Vô, chả là cái chết chập chờn ở trong phòng bệnh, và ở giữa đêm tăng này muốn thủ tiêu Anh mà không được. Anh là Một. Nó muốn zéro - hoá Anh, hư vô hoá Anh cho không còn dấu vết. Nhưung anh đâu chịu thua. Anh hoà hai, hoà ba, mình ngồi cạnh mình, hơn thế mình lại vạm vỡ ra, nở nang lên, gánh chạy, gánh cái gánh máu đời mình, chạy trên cái bể thảm kịch của đời mình. Cũng là một cách đối chọi! Hơn gấp trăm lần cái phương pháp ngắm bóng mình dưới giếng nước của Narcisse đến héo mòn, huỷ diệt đi không còn tồn tại ở kiếp người.
Nếu ta hiểu cho sự đối phó ấy của Tử thì Hồn anh chả có gì hồn ma, bóng quỷ, hay là cái linh hồn của Chúa thổi vào, trong đất sét là ta: "Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng". Hồn, đó là sản phẩm Anh tạo ra. Tạo ra, lại còn dắt nó đi chơi nữa: "Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay". Anh có bạn. Hàn Mặc Tử không còn thụ động là sản phẩm trong bàn tay Thượng đế, tự Anh, Anh đã chủ động, đóng vai Thượng đế, hơi phạm thượng đấy, nhưng vui chứ, đỡ cô đơn chứ. Khạc hồn ra, "cho hồn cao văng lên muôn trượng" bằng Miệng, cái cơ quan sử dụng Lời, Ngôn ngữ:
                               Anh lại còn khạc ra nhan sắc, người yêu:
                               Cả miệng ta là trăng là trăng
                               Cả lòng ta vô số gái hồng nhan
                               Ta nhả ra đây một nàng
                               Cho mây lặng lờ cho nước ngất ngây.
Và bỗng dưng từ thơ, tôi nhớ đến khoa học, đến nhà khoa học vĩ đại của nhân loại Einstein. Ông nói: "Cái điều đẹp nhất mà ta có thể cảm giác được chính là cái khía cạnh huyền bí của cuộc đời. Đó là tình cảm sâu xa ở trong nôi của nghệ thuật và khoa học thật sự". Nhà khoa học thật sự tương đối yêu sự diệu huyền và nuôi đứa trẻ ấy trong nôi, thế sao ta, nhà văn nghệ còn bấp bênh lại muốn tuyệt đối chỉ yêu cái gì một là một, hai là hai rõ ràng, chứ không thể một vẫn là hai được?
Tôi đã có một kết luận kỳ cục, ngược đời nữa. Hình như trước cách mạng, cả nước đau thương, mà thêm một giọt đau thương của Tử thì thuyền đau thương ta nặng quá, và chìm vào bể đau thương mất! Cả cuộc đời ở trong vòng nô lệ, thì cái huyền diệu cần thiết, cần kíp nhất lúc ấy là phá cái vòng ấy để giải phóng mình, chứ huyền diệu, diệu huyền "lên bến sông Ngân giặt lụa chơi", "nước biến thành trăng trăng ra nước" thì là thoát ly nguy hiểm... Ấy, nhưng bây giờ, bây giờ thì lại khác. Thập vạn hùng binh của ta đã quét sạch các thứ đế quốc đến đây. Ta quyền lực, ta oai hùng mà bịt tai lại không nghe tiếng kêu khóc kia, khép mắt lại không nhìn sự diệu huyền kia thì nguy hiểm! Biết đâu ở đầu đường chỉ là sự tự tin ở sức khoẻ mình, sức lực mình, mà rồi chủ quan, mà rồi lãnh đạm mà rồi vô tâm, mà rồi quan liêu.... và cuối cùng là sự xơ cứng động mạch bạo tàn. Con mắt chớp chớp để ngạc nhiên, con mắt long lanh để khóc cần lắm chứ. Chứ phải đâu chỉ có con mắt tỉnh thức, tỉnh táo, cảnh giác, trừng trừng. Nhà tiểu thuyết lớn Liên Xô, Bônđarep nói về sứ mệnh của nhà văn là: bằng những giây thần kinh lòi trần, họ cảm nhận nỗi đau của những người khác và truyền cho đồng loại những tín hiệu về sự khốn cùng phải cứu giúp nhau". Tín hiệu S.O.S của Tử không phải chỉ cứu Hàn Mặc Tử! Chết rồi, anh cần gì! Cứu chúng ta đấy chứ. "Người dưới vực sâu vẫn cứu kẻ trên bờ". Cứu ta khỏi sự chết cứng dày da, giảm sút xúc cảm, giảm sút nhân tính, nhân tình... Đừng sợ nó làm cho ta thoát ly. Đọc đi, bạn sẽ thấy nó làm cho ta thoát chứ không ly, ta thanh thoát, ồ, phải đấy, nó có tác dụng tẩy rửa và thanh lọc.
Có nhiều ngộ nhận cho đến nay về Tử. Rằng Anh là tiếng nói của tôn giáo, của Thiên Chúa giáo. Có thì cũng chả sao! Các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu, đứng đầu là Liên Xô, khi tiếp thu di sản quá khứ thì ba phần tư các tác phẩm xưa là của nhà văn hay nói đến Thượng đế. Và ta chả tiếp thu thơ các nhà sư, sư tổ nữa, đời Trần, đời Lý đó sao? Cố nhiên là Hàn Mặc Tử yêu Chúa, nguồn động viên lớn, vô cùng lớn với Anh trong bước ngặt nghèo. Nhưng khi Anh viết bàiThánh nữ đồng trinh Maria:
                               Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
                               Cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới trần thế
là Anh vừa viết cho Mẹ trên trời vừa cho Mẹ Anh dưới đất. "Mẹ ơi, con sắp chết nay mai. Con không sợ chết mẹ ạ. Nhưng nghĩ rằng con sẽ phải rời bỏ mẹ, con đau lòng quá". Tôi nhớ cái lời thư ấy. Tử là người con rất có hiếu. Tử cũng từng vì chị Lễ trong bài thơ văn xuôi tuyệt vời như thuỷ tinh Chơi giữa mùa trăng: chị "thanh thoát tinh khôi, uy nghi và tươi tốt như pho tượng Đức bà Maria". Chuyện dưới đất thành ra chuyện trên trời. Một người công giáo chính tông không thể viết: "ở đời chỉ có một hạnh phúc, làm chi có hai cảnh Tịnh độ và Niết bàn". Lên cao trên Thượng thanh khí, Tử ít gặp thiên thần mà lại hay gặp các Nàng Tiên đang tắm "Và đôi môi biểu lộ hết xuân tình". Đừng đưa Anh lên cao, nhưng cũng xin đừng lợi dụng Freud, lợi dụng phân tâm học, hạ anh xuống một nhà thơ xác thịt. Chính thế tục trong anh, cái sức nặng của sự sống có hồn và có thân thế ấy đã níu Anh lại, không cho Anh đứt dây bay hút vào cõi Siêu hình. Vả chăng Anh thế chứ đâu có tục! Khi ta thích "Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên" của Nguyễn Du, ta phải thích "Ơ kìa bóng nguyệt trần truồng tắm" của Anh. Chả lẽ cô Hồ Xuân Hương có quyền mà bóng trăng Anh thì bị cấm!
Cũng không nên nấp sau lưng của Heiddger, nói Anh là nhà thơ của vô vọng thời gian, con người bị cuốn hút vào hư vô vào cõi chết. Ai mà chả là nhà thơ của thời gian, vì ai mà không bị cuốn trong dòng sông âm thầm hay xiết chảy đó? Nhưng ngược đời chưa, Hàn Mặc Tử lại bước vào không gian đấy:
                               Chắp tay tôi lạy cả miền không gian
                               ... Van lạy không gian xoá những ngày
Băn khoăn của Anh không phải là lúc nào, mà ở đâu:
                               Tôi vẫn còn đây hay ở đâu
                               Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu
Còn Hư Vô, còn sự chết? Biết mình đang chết, sẽ chết, thế mà:
                               Ta đi bắt nắng ngừng nắng reo nắng cháy
                               Trên sóng cành, sóng lá, cô gì má đỏ hây hây
                               Ta rình nghe niềm ý bâng khuâng trong gió lãng
                               Với là hơi thở nồng nàn của tuổi thơ ngây
Hỡi người đang sống, ta thừa sức sống, đang dồi dào sinh lực như chúng ta, có "làm" được dăm câu như vậy không?
                               Vạn tuế, bay đi, nắng rợp trời.
Tung hô nắng, mà bay ơi, đủ biết Anh không đứng vào hàng các cụ già đang sắp hàng lục khụ chờ giờ báo tử. Kìa Anh đang chạy reo trong sân, trong nắng ngoài kia! "Bay ơi, nắng".
Ai đó bảo "Người ta không giải thích một người đang giận (hay đang điên thì cũng thế), người ta hiểu anh ta thôi. Có khi chỉ hiểu cũng chưa đủ. Phải cảm. Dùng ý thức để giải thích, để hiểu chưa được thì phải huy động cái vốn liếng tiềm thức, kinh nghiệm, trực giác, kỷ niệm... mà bao trùm cảm một cái xem sao.
                               Trăng, trăng, trăng là trăng, trăng, trăng
Thế là tận cùng của sự dễ hiểu rồi, có gì, còn gì để giải thích nữa? Ấy thế nhưng cảm cho được cái nhịp điệu tăng, tăng, tăng, như tiếng trăng chạm vào tâm hồn, tăng, tăng, tăng như cái ngân vang của tâm hồn không dứt, thế là lại bí mật, lại huyền diệu rồi! Đọc Hàn Mặc Tử là như vậy. Có khi đọc từng câu, từng ý, cầm từng bộ phận lên ta không hiểu. Nhưng ào đi, đọc một hơi cả bài, để cho nó cuốn ta đi trong dòng chảy của nó, cảm cho hết cái hồn, cái khí lực, cái không khí, cái nhịp điệu toàn bài, vâng toàn bài, thì ta lại "ngộ" ra. Cái rung động nhờ cảm toàn bài giúp ta quay lại hiểu được từng chữ, từng câu, từng bộ phận. Bị truy kích bởi cái chết, Tử hối hả, dồn dập sáng tạo chứ đâu có làm văn! Anh trút đời mình, lòng mình từng trận, từng hơi chứ đâu có ngồi điêu khắc, chạm trổ từng câu từng chữ. Ta phải hiểu Anh không phải từng câu từng chữ mà từng hơi. Các nhà thơ khác ta tìm hiểu, rồi làm quen, quen cho đến thuộc, càng thuộc, nhập tâm ta càng khám phá ra và yêu họ. Nhưng với Hàn Mặc Tử có khi lại cứ phải yêu Anh trước, thuộc Anh trước, nhờ thế ta quen với những kỳ, những siêu, những điên, những dại, những tận đáy, những tột trời của Anh và nhờ thế, ta lại hiểu Anh. Hiểu vì sao Anh lại nghe được những điều ta không nghe:
                               Người lắng nghe, lắng nghe trong đáy giếng
                               Tiếng vàng rơi chìm lịm xuống hư vô
thấy được các màu ta không thấy:
                               ... Chết rồi, xiêm áo trắng như tinh
                               ... Bóng em chờn chợ trong bao nhiêu màu
Anh có những tầm nhìn ta chưa quen thuộc:
                               Anh đứng cách xa hàng thế giới
                               Lặng nhìn trong mộng miệng em cười
Mặc những thứ ta ít mặc:
                               Áo ta rách rưới trời không vá
                               Suốt bốn mùa trăng mặc vải trăng
Cho đến lương thực của anh cũng khác:
                               Gió trăng có sẵn làm sao ăn
Ta hãy để cho ta cuộn đi trong dòng nhạc, cái nhạc mới nghe chưa hiểu nó nói gì, chỉ cảm được nó ru ta, nhưng đừng sốt ruột, son (âm thanh) đi trước và sens (ý nghĩa) sẽ lần theo sau, lần theo sau, đừng sốt ruột.
                               Sang chơi thôi, sang chơi thôi, mà ai
                               Thu đây rồi! Bước lên cầu Ô Thước
                               Sao vàng rơi đầy trên sóng nước
                               Đứng ngửa tay mà hứng máu trời sa
rồi lại
                               Để chơi vơi này bông trăng lá gió
                               Để phiêu diêu này tờ thơ vàng vọ
                               Để dầm dề hạt lệ đôi ta
Beethoven bảo rất đúng: "Âm nhạc là một sự thiên khải cao hơn mọi khôn ngoan, mọi triết học". Để cho cái nhạc dại dột của đoạn thơ này ru ta, nghe những máu kia, sao trời kia, tờ thơ kia, giọt lệ nọ, bỗng dưng ta thấy loé ra nhưu được khôn ra, được thiên khải và nhận ra rằng: Hàn Mặc Tử đây rồi. Máu và sao, chơi vơi và vàng vọ, phiêu phiêu trăng gió và hạt lệ dầm dề.
Cái cấu trúc nghịch lý của Hàn Mặc Tử! Hồn tráng lệ của Anh đấy, mà thảm kịch của đời Anh đấy. Hiểu rồi.
Đi công tác ở các nước phương Tây, tôi thường gặp anh chị em Việt Kiều xa nước lâu ngày, gặp anh chị em di tản nữa. Các anh chị hỏi: "Cách mạng đối với Hàn Mặc Tử ra sao?".
Ra sao ư? Cách mạng đã đón di hài vua Duy Tân về nước vừa rồi, Cách mạng cũng đón thơ của Tử như vậy. Cách đây từ những ba mươi năm tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai năm 1957, lúc đất nước mới chỉ có tự do một nửa, thù trong giặc ngoài làm cho Tổ quốc ta ở trong thế ngặt nghèo, thế mà bàn về vấn đề tiếp thu di sản, đồng chí Trường Chinh đã nói:
"Cần nhận ra rằng văn nghệ Cách mạng của chúng ta là kẻ kế thừa tất cả những giá trị văn nghệ do các thời đại trước tạo ra. Chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển tất cả các di sản của dân tộc và cũng chỉ có chúng ta mới làm nổi công việc đó"
Hai lần đồng chí dùng đến chữ tất cả 57-87! Ba mươi năm, chiến tranh cũng chiến tranh rồi, hoà bình cũng hoà bình rồi, nếu không tiếp thu Tử bây giờ còn đợi đến lúc nào! Giao cho con cháu tiếp thu thì con cháu sẽ lên án chúng ta thôi. Sao cái gì cũng dồn cho chúng nó. Chúng nó còn bao nhiêu việc. Huống nữa tiếp thu Tử là lợi cho chúng ta chứ lợi gì cho Tử đã chết cách đây nửa thế kỷ. Anh Trường Chinh dặn tiếp: "Việc uốn nắn lại những thái độ hẹp hòi máy móc đối với những giá trị văn nghệ cũ không những có tác dụng sửa chữa những thái độ bất công với nhiều tác phẩm mà còn có tác dụng mở rộng con đường cho sáng tác văn nghệ hiện thời". Thực là chí tình đạt lý.
Và tôi tin là việc tiếp thu Tử, như anh Trường Chinh nói đó, với văn nghệ hiện thời, sẽ có tác dụng mở rộng con đường, hỡi những người mỗi bước đi cứ sợ nhầm đường.
Sự thừa kế các tác phẩm như của Tử sẽ làm cho tim ta nhân tính hơn, óc ta co dãn đàn hồi hơn, và cía nhìn ta không đơn giản mà trở nên đa dạng và phong phú.
Ô kìa, bây giờ, đối diện với bể Đông, trên điểm cao Gành Ráng, mộ Tử bỗng dưng ngời chói. Cách không xa vị trí, lâu dài của một tên vua nhà Nguyễn gần đó đang lại tàn. Nguyễn Trọng Trí là Tử đâu có thừa nhận thứ vua ấy. Dù cơ cực đến mấy, Tử vẫn tin ở cái ngôi sáng tạo của mình. Anh mới là vua chứ.
                               Ta đi tìm mộng tầm xuân
                               Gặp vua nhà Nguyễn bay trên mây
                               Rượu nắng uống vào thì say
Rực rỡ như một vì vua:
                               Đầy mình lốm đốm những hào quang
Nghĩa là anh không chấp nhận sự huỷ diệt, sự cát bụi, tro bụi hoá anh như lời nguyền rủa "Từ cát bụi mi trở về cát bụi". Nghĩa là anh tin ở sức sáng tạo "bàn tay thi sĩ kể lên trăng" của anh. Đồng thời tin chúng ta sẽ đánh giá đúng tài năng "siêu" ấy.
Gành Ráng... Qui Nhơn... Tôi nhớ lại bao nhiêu hình ảnh, kỷ niệm một thời. Nhớ Anh, nhớ không khí gia đình Anh, bác gái thân sinh ra Anh, Chị Lễ... Nhớ những người bạn gần xa đã dính líu đến Tử, bao bọc, đùm bọc lấy Anh - Quách Tấn, Trần Thanh Địch, Trọng Quí (Thanh Nghị bây giờ). Trọng Miên, Bích Khê, Yến Lan, Hoàng Diệp, Nguyễn Viết Lãm, v.v.... Nhớ tên những người con gái từng đi qua hay ở lại trong đời Anh, có người là bóng hình, có người chỉ là cái tên thôi. Anh chưa gặp mặt: Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình, Thương Thương và cái tên:
                               Ta đề chữ Ngọc trên tàu chuối
                               Sương ở cung thiềm giỏ chẳng thôi
Nhưng lạ chưa, nhớ nhất vẫn là tôi nhớ chú Hành, cậu bé có tên mà hoá vô danh, nhưng mà bốn năm trời cậu vẫn hằng ngày chăm sóc, đem cơm cho Tử. Gặp Hành lúc nào cũng thấy Hành cười! Quá chú ý đến tri kỷ, tri âm mà quên người ân nhân này đi là điều không phải đâu, hỡi các nhà viết sách sau này về Hàn Mặc Tử.
Viên Tĩnh Viên, 2-9-1987
(Nguồn: vanvn.net)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét