Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Ba, 24 tháng 5, 2011

PHAN KHÔI - NGƯỜI GÓP PHẦN DỊCH KINH THÁNH RA VIỆT NGỮ


 PHAN KHÔI (1887-1959)

Nguyễn Đình Bùi Thị
Kiến thức ngày nay, số ngày 20/02/2011
  
Như nhiều người trong chúng ta đã biết, Phan Khôi là nhà thơ đã khởi xướng ra phong trào Thơ mới vào những năm đầu của thập niên 30 thế kỷ 20, và là một dịch giả đã góp phần tham gia ,dịch Kinh Thánh ra Việt ngữ cho tín đồ Tin Lành sử dụng.
Đạo Tin Lành đã được du nhập vào nước ta từ năm 1911, đến năm 2011, đã có mặt trên đất nước ta tròn 100 năm. Tôi tin rằng, trong dịp kỷ niệm 100 năm đạo Tin Lành có mặt trên mãnh đất hình chữ S yêu quý này những tín hữu Tin Lành sẽ không thể nào không nhắc đến tên tuổi của nhà văn,nhà báo, dịch giả nổi tiếng PHAN KHÔI.
Phan Khôi - vài nét về tiểu sử và văn nghiệp
Phan Khôi, hiệu Chương Dân, Tú Xởn (Tout Seul), Thông Reo, Tân Việt, Khải Minh Tử, sinh ngày 6-10-1887 (nhằm ngày 20.8 năm Đinh Hợi) tại làng Bảo An, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay là làng Bảo An, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Cha là Phó bảng Phan Trân, từng là Tri phủ Diên Khánh (Khánh Hòa), mẹ là Hoàng Thị Lệ, con gái Tổng dốc Hoàng Diệu. Cụ Phan Trân có hai người con, một trai là Phan Khôi, và một gái là Phan Thị Diệm sinh năm 1890. Năm 27 tuổi, Phan Khôi cưới vợ là cô Lương Thị Tuệ, 19 tuổi, con gái đầu lòng của cụ cử nhân Lương Thúc Kỳ, người làng Hà Tân xã Đại Lãnh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quang Nam. Bà sinh cho ông 4 trai 4 gái. Năm 1935, ông lấy thêm người vợ hai tên là Nguyễn,Thị Huệ, sinh năm Tân Hợi (1911), mất biên Hòa, Đồng Nai (2010), người gốc xã Xuân Giao huyện Xuân Trương, tỉnh Nam Định, có thêm 2 trai, 1 gái.
Phan Khôi qua đời vào ngày 16.1.1959 (nhằm ngày mồng tám, tháng chạp năm Mậu Tuất) tại một căn nhà ở phố Thuốc Bắc, Hà Nội, hưởng thọ 73 tuổi.
Phan Khôi là học trò của chí sĩ Trần Qụý Cáp, của thầy Phan Thành Tài, thầy Lê Hiên. Ngay từ nhỏ, Phan Khôi đã nổi tiếng là người thông minh, học giỏi và hay... lý sự.
Năm 1906, lúc vừa 19 tuổi, thi Hương tại Huế và đậu Tú tài Hán học, nên thường được gọi là Tú Khôi. Lúc đương thời, Phan Châu Trinh rất mê tài học của ông và nói với mọi ngườirằng: “Quảng Nam sẽ có hai tiến sĩ xuất sắc là Phan Khôi và Nguyễn Bá Trác”. Lời tiên đoán ấy của Phan Châu Trinh tuy không thành sự thật, nhưng xét trên thực tài thì Phan Khôi là một người xuất sắc về nhiều lĩnh vực của học thuật. ''Từ một nhà hoạt động duy tân, nhà báo, nhà thơ, nhà lý luận... bộ môn nào ông cũng tỏ ra rất sắc sảo độc đáo mà có lẽ một vị tiến sĩ cũng khó bắt kịp tài năng, bút pháp và lý luận của ông”(1). Năm 1908, phong trào Duy Tân bị khủng bố, ông bị bắt ở Nam Định và đưa về giam tại Hội An cho đến năm 1911(2) mới được trả tự do. Ra khỏi tù, ông cưới vợ và mở lớp dạy chữ Hán tại nhà. Năm 1916, ông ra Bắc, xuống Hải Phòng làm thư ký cho Công ty Bạch Thái Bưởi. Năm 1917, ông vào làm việc cho tạp chí Nam Phong của Phạm Quỳnh. Sau một thời gian, ông vào Sài Gòn viết cho tờ Lục Tỉnh Tân Văn. Sau đó, lại trở ra Hà Nộiviết cho tờ Thực Nghiệp Dân Báo và Hữu Thanh. Rồi trở lại Sài Gòn, tung hoành ngòi bút một cách mạnh mẽ chưa từng thấy trên một loạt những tờ báo nổi tiếng thời bấy giờ như Đông Pháp Thời Báo, Thần Chung, Trung Lập, Phụ Nữ Tân Văn từ các năm 1929-1932. Nhưng sau đó, người ta lại thấy ông ra Hà Nội làm Chủ bút tờ Phụ Nữ Thời Đàm. Rồi ông vào Huế, viết cho tờ Tràng An, làm chủ bút tờ Sông Hương. Đến năm 1939, người ta thấy Phan Khôi xuất hiện ở Sàigòn, nhưng không pahỉ để viết báo như những lần trước nữa mà để dạy học
Sau Cách mạng tháng Tám, ông được mời tham gia kháng chiến, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, tham gia ban giám khảo các giải văn học …
Nhà thơ Lê Minh Quốc quả quyết rằng: ''Ngoài cụ Huỳnh Thúc Kháng,nếu chỉ chọn lấy một nhà báo tiêu biểu nhất của xứ quảng trong thế kỷ XX, tôi sẽ chọn lấy Phan Khôi. Đó là một hình ảnh kỳ lạ nhất, cô độc nhất, bản lĩnh nhất của lịch sử báo chí Việt Nam hiện đại''(3). Thật vậy, về phương diện báo chí, Phan Khôi là một nhà báo có lý luận sắc bén mang đậm nét tính cách lý sự của người Quảng Nam. Nhà báo đòi hỏi phải viết gãy gọn, tư tưởng rõ ràng mới thuyết phục người đọc. Phan Khôi có đầy đủ những điều đó. Nhà thơ Nguyễn Vỹ nhận xét rằng:''Phan Khôi nói thẳng thắn những điều ông suy nghĩ, viết thẳng thắn những lời ông nói cho nêntư tưởng của ông rất chân thật, văn của ông rất hấp dẫn,và ảnh hưởng sâu rộng trong giới thanh niên'' (4). Có thế nói chưa thấy có nhà báo nào của Việt Nam bạo dạn, sẵn sàng khởi xướng và tham gia vào nhiều cuộc tranh luận báo chí sắc bén như Phan Khôi, để lại tiếng vang lớn trên văn đàn báo chí nước nhà một thời như là một dấu ấn khó phai trong tâm trí người đọc. Có thể kể ra đây những cuộc tranh luận thú vị ấy như: cuộc tranh luận với học giả Trần Trọng Kim về nho giáo; cuộc tranh luận vởi Phạm Quỳnh về Truyện Kiều; cuộctranh luận với Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, với Nguyễn Tiến Lãng về các đề tài luân lý và đạo đức của người Việt …
            Giáo sư Thanh Lãng có một nhận định về tài lý luận trong cách viết của Phan Khôi khá xác đáng như sau: “Lý luận rất rắn mà không đài các, đã kích đến nơi mà không kiêu căng, cho nên thường nguời bị đã kích không thể giận ông. Mà ông cũng chẳng để cho họ có thì giờ mà giận. Cái hồn nhiên của ông làm cho cả thù địch của ông nếu không ghét ông thì cũng nể ông''.(5)
Về phương diện văn chương, nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan cho rằng Phan Khôi là một trong những nhà văn xuất sắc nhất trong phái nho học. Quả thật vậy, Phan Khôi là nhà thơ được mệnh danh là người khởi xướng phong trào Thơ mới, dù ông khiêm tốn không nhận điều đó. Với bài thơ Tình già (6) được đăng trên tờ Phụ Nữ Tân Văn, số ra ngày 10.3.1932,Phan Khôi đem ''Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ'' đã gây nên một phong trào bàn tán về văn chương sôi nổi thời bấy giờ. Tình già đúng là một quả bom nổ giữa làng thơ Việt Nam vào thập niên 30 của thế kỷ 20. ''Và Phan Khôi trở thành người cắt băng khai mạc thời đại mới trong thi ca''(7). Chỉ với bài thơ nổi tiếng này thôi, Phan Khôi cũng đủ để xứng đáng là một thi nhân đích thực của nền thi ca hiện đại nước ta.
Di sản văn chương của Phan Khôi để lại cho chúng ta (được in thành sách) dù không phải là nhiều lắm, nhưng cũng đủ để cho chúng ta đọc và khâm phục tài năng văn chương, báo chí của ông. Tác phẩm của Phan Khôi được in thành sách không nhiều, nhưng những bài viết của Phan Khôi đã đăng các báo thì vô số kể, trong đó có rất nhiều bài hay, sâu sắc, đọc đáng đồng tiền bát gạo, nhất là bài nghiên cứu về trung Việt, những bài phê bình văn học, học thuật, những bài tranh luận của ông với các nhà báo, nhà văn khác trên văn đàn v.v.
Nhận xét về văn nghiệp của Phan Khôi, nhà thơ Lưu Trọng Lư cho rằng Phan Khôi ''quả là người viết quốc ngữ đúng đắn hơn hết, yêu chữ quốc ngữ với tất cả sự từng trải của một người đã sống khắp ba kỳ, quen thuộc với những lối phát âm, với những thổ ngữ...''(8). Còn giáo sư Hoàng Tuệ thì viết rằng: ''Phan Khôi là nhà văn rất quý trọng tiếng Việt, quyết tâm bảo vệ ngôn ngữ dân tộc''(9). Nhà thơ Nguyễn Vỹ thì nhận xét về Phan Khôi là ''một trong các nhân vật nổi tiếng nhất trên văn đàn Việt Nam với ngọn bút sắc sảo có một không hai... Chính ông là người đã mở ra một chân trời mới cho văn chương Việt Nam nói chung và Thơ mới nói riêng''(10).Còn theo nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng thì: ''Sự nghiệp sáng tác và trước tác của Phan Khôi có một chỗ đứng vinh quang trong thời kỳ quốc ngữ bắt đầu có tư thế trên văn đàn Việt Nam''(11).
Nói về Phan Khôi, cũng không thể không nhắc tới mấy câu thơ (có thể tạm gọi là như thế) được xem như là câu cửa miệng của Phan Khôi mỗi khi đứng trước những khó khăn, những bất trắc của đời sống, thể hiện được thái độ bình tĩnh, ung dung tự tại của mình. Có thể nói những câu thơ này của ông khắc họa được tính cách Quảng Nam của nhà thơ một cách khá rõ nét.
Làm sao cũng chẳng làm sao
Dẫu có thể nào cũng chẳng làm chi
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao

Những câu thơ này được truyền tụng trong nhân dân rất rộng rãi và có khá nhiều người biết, thuộc lòng, chẳng khác nào như những câu ca dao vậy.
Phan Khôi - người góp phần dịch Kinh Thánh (Tin Lành) ra Việt ngữ
Bản Kinh Thánh mà hầu hết những tín hữu Tin Lành Việt Nam đã sử dụng trong vòng mấy chục năm qua, kể từ năm 1926 là lần xuất bản đầu tiên cho đến nay, và chắc cũng sẽ còn dùng cho đến lâu dài về sau này nữa, đó chính là bản dịch mà Phan Khôi đã góp phần rất lớn trong đó.
Phan Khôi dịch cuốn Kinh Thánh lúc bấy giờ mất bao nhiêu thời gian? Theo Trần Mạnh Thường cho biết: ''Ông lại ra Bắc ở Hội Tin Lành. Ông chuyển dịch Kinh Thánh, chữ Nho ra Quốc ngữ. Ông dịch khá tốt. Làm được một năm, ông lại vào Nam kiếm việc”(12). Bà Phan Thị Nga (vợ của nhà văn Hoài Thanh, đặc phái viên của báo Ngày Nay do Nhất Linh chủ trương) cũng cho biết về Phan Khôi dịch Kinh Thánh cho Hội thánh Tin Lành, “Làm được một năm ông lại thôi”. Nhà báo Vu Gia cho rằng chi tiết này không đúng, ''vì với thời gian ấy, Phan Khôi không tài nào dịch xong bộ sách ấy” (13).Và qua sưu tầm về tư liệu Phan Khôi, Vu Gia phát hiện ra rằng ''Phan Khôi dịch cuốn Kinh Thánh trong khoảng thời gian năm''(14). Trên Phụ nữ Tân văn số 74, ngày 16. 10. 1930, (sau khi mục sư W. C. Cadman, chủ nhiệm tờ Thánh Kinh báo lúc bấy giờ có gởi biếu Phan Khôi, khi báo ra số đầu tiên), Phan Không có viết bài “Giới thiệu và phê bình Thánh Kinh báo'', trong đó có đoạn: “Sau hết, tôi xin có lời cám ơn ông bà mục sư Cadman đã gởi tặng tập báo này cho tôi. Vì tôi làm chung việc dịch Kinh Thánh với ông trong 5 năm (1920-1925)''.
 Tiến sĩ Nguyễn Thanh Xuân viết: ''Từ năm 1919, sau khi dịch bốn sách trong Tân ước, vợ chồng W. C. Cadman được sự giúp đỡ của văn sĩ Phan Khôi (1887-1960) dịch Cựu ước ra quốc ngữ và đến năm 1925 thì họ hoàn tất” (15).
Như vậy để có được bản Kinh Thánh tiếng Việt bao gồm cả Cựu ước và Tân Ước cho những tín hữu Tin Lành đọc như ngày hôm nay, dịch giả Phan Khôi đã mất 5 năm dài có hơn. Thật là cả một côngt rình đáng trân trọng lắm vậy.
Mục sư Lê Hoàn Phu cho biết: ''Gia đình Cadman tiếp tục công tác dịch Kinh Thánh năm 1919, lần này với sự cộng tác của ông Phan Khôi, một học giả và văn sĩ lỗi lạc, đã với họ trong 10 Năm. Họ hoàn tất Cựu ước năm l925, sau khi đã duyệt xét kỹ lưỡng bởi các văn sĩ, mục sư,giáo sĩ, kể cả Olsen, toàn bộ Kinh Thánh đã được in tại Hà Nội năm I926. Vừa khi cuốn Kinh Thánh Việt Nam được in xong, ông Phan Khôi nhận chức Chủ nhiệm một tờ báo quan trọng ‘với giá lương gấp bội hơn lương có thể trả cho ông để dịch Kinh Thánh’. Chẳng bao lâu họ Phan khởi xướng ''phong trào Thơ mới đã làm rung chuyển cả những truyền thống văn học từ bao thế kỷ ở trong xứ và cũng phóng ông lên địa vị lãnh đạo các đoàn thể văn học. Giá trị của công việc ông về việc bản dịch Kinh Thánh năm 1926 vẫn còn được các độc giả Việt Nam ưathích''(16).
Về giá trị của bản dịch Kinh Thánh năm 1926, nhà báo Vu Gia viết: “Nhìn chung, đây làbản dịch tốt Nhưng nói như vậy chẳng khác nào khen phò mã tốt áo bởi thời gian đã khẳng định bản dịch ấy rồi''(17).
Nhà văn Tô Hoài nhận xét: “Kinh Thánh cả Tân Ước, Cựu Ước của hội đạo Tin Lành, người ta bảo ông (Phan Khôi) dịch thuê, khi ấy ở Hải Phòng, tôi cũng có đọc. Có chương Nhã Ca lời rất thơ” (18). Trong tác phẩm Người Quảng Nam, nhà thơ Lê Minh Quốc viết về việc Phan Khôi dịch Kinh Thánh như sau: ''Giai đoạn này, ông đã làm một việc khó ai ngờ là sử dụng bản chữ Hán đối chiếu với bản chữ Pháp để dịch Kinh Thánh cho hội Tin Lành. Bản dịch của ông câu cú gẫy gọn, trong sáng, văn phạm chuẩn mực, chứng tỏ một trình độ học vấn uyên thâm''(19). Thế nhưng, qua cuốn Phan Khôi - Tiếng Việt, Báo chí và Thơ mới, Vu Gia dẫn chứng tư liệu từ bài viết của Phan Khôi, thì ông dịch cuốn Kinh Thánh này qua bản tiếng Pháp. Cuốn Kinh Thánh này về sau được nhuận sắc nhiều lần, nhưng về cơ bản vẫn dựa trên ''cái nền'' của bản dịch năm 1926.
Nhà báo Vu Gia có viết: ''Là kẻ ngoại đạo, nên nghe nguôi biết chuyện nói vậy thì hay vậy, song khi đọc xong, tôi cũng tin bản dịch tôi đang có (cuốn Kinh Thánh do Nhà xuất bản Hà Nội ấn hành năm 1998) là bản dịch của Phan Khôi, hoặc ít ra 80% - 90% là của Phan Khôi. Vì khi đọc, tôi dễ dàng nhận ra chất-giọng-đặc-sệt-Quảng-Nam trong bản dịch. Có thể nói rằng, lật bất cứ trang nào, ta cũng có thể gặp cái chất giọng đặc sệt Quảng Nam ấy''(20). Rồi Vu Gia dành hai trang (từ trang 382-384) để trích dẫn các câu Kinh Thánh mang đậm chất giọng Quảng Nam từ sách Sáng thế ký cho đến sách Công vụ các sứ đồ. Xin được trích một và câu trong rất nhiều câu mà Vu Gi đã dẫn trong sách của mình như sau (chỉ trích những trang đậm chất giọng Quảng Nam mà thôi): hột (Sáng thế ký 1:11), Mà chi? (Sáng thế ký 3:1), hè! (Sáng thế ký 11:1), Ngộ (Sáng thế ký 18:30), lấy chi (Luca 14: 34),  giữ lấy y như (1 Cô rinh tô 15:2)... Ngoài ra, ông còn dành đến gần 6 trang trong sách của mình (từ trang 385 - 390) để trích những câu Kinh Thánh trong các sách Văn thơ từ Gióp cho đến Nhã ca mà nhiều người cho là Phan Khôi dịch hay nghe như... thơ.
               Những đóng góp của Phan Khôi cho nền văn chương nước ta quả là không nhỏ, trong đó có bán dịch Kinh Thánh (Tin Lành) của ông là một đóng góp khá xuất sắc.
 ________________________
Chú thích:
(1   (1) Nguyễn Vỹ, Văn Thi Sĩ Tiền Chiến, NXB. Văn Học, tr. 366.
(2) Lê Minh Quốc, Người Quảng Nam, NXB. Đà Nẵng, 2007, tr.272.
(3) Lê Minh Quốc, sđd, tr.270.
(4) Nguyễn Vỹ, sđd, tr.376.
(5) Vu Gia, Phan Khôi- Tiếng Việt Báo chí và Thơ mới, NXB Đại Học Quốc Gia TPHCM, 2003, tr.564.
(6) Bài thơ này đă được khắc trên bia mộ của ông tại xứ Cửa Truông, thôn Tân phong, xã Duy Châu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam và cũng được nhạc sĩ Vũ Hoàng phổ nhạc. Chúng tôi xin trích lại bài thơ này để bạn đọc cùng tham khảo.
(7) Vu Gia sđd, tr.544.
(8) Vu Gia sđd, tr.530.
(9) Phan Thị Mỹ Khanh, Nhớ cha tôi Phan Khôi, NXB Đà Nẵng, 2001.
(l0) Nguyễn Vỹ, sđd, tr.367.
(11) Nguyễn Q.Thắng, Quảng Nam Đất Nước và Nhân Vật, NXB. Văn Hóa Thông Tin, tr.604.
(12) Trần Mạnh Thường, Từ điển tác gia văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Hội Nhà Văn, 2003, tr.874.
(13) Vu Gia sđd, tr.52.
(14) Vu Giạ sđd, tr.380, 380. .
(15) Nguyễn Thanh Xuân, Bước đầu tìm hiểu Đạo Tin Lành Trên Thế Giới và ở Việt Nam (Lưuhành nội bộ), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, 2002, tr.373.
(16) Mục sư Lê Hoàng Phu, Ph.D, L. Lịch Sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, 1911- 1965, tr.111.
(17) Vu Gia sđd, tr.390.
(18) Vu Gia sđd, tr.384.
(19) Lê Minh Quốc, sđd, tr.273.
(20) Vu Gia sđd, tr.382.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét