Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Ba, 10 tháng 5, 2011

MIỀN ĐẤT HUYỀN ẢO (PHẦN III VÀ PHẦN IV)

Phần III

Tiếng nói thống nhất và đa tạp

Mỗi tộc người đều độc đáo và có những tính cách riêng, về phương diện dân tộc học nhiều hơn là nhân chủng học. Các yếu tố khác nhau về địa lý chỉ làm biển đổi rất ít loại hình thể chất chủng tộc, nhìn chung đều giống nhau trên những nét lớn, song lại tạo nên những tính chất dân tộc học riêng biệt và định hướng sự phát triển của những tính chất ấy. Cách cấu tạo của vùng đất, những ngăn cách hay những lối đi qua, đã ảnh hưởng đến ngôn ngữ của những người bản địa, chia cách những người này, tạo thuận lợi cho sự tiếp xúc giữa những người khác.
Nghiên cứu so sánh tiếng nói của mỗi tộc người cho thấy những sự gần gũi khiến ta có thể giả định có một nền tảng duy nhất về cách biểu đạt. Từ đó phái sinh ra các phương ngữ tùy theo từng nơi chốn. Các phương ngữ đó là những thổ ngữ địa phương hơn là những ngôn ngữ khác biệt. Phải chăng ngôn ngữ mẹ là cái ngôn ngữddös pönddik [1] của Truyền thuyết, được nói thời kỳ còn ở biển? Người Tây Nguyên cho là như vậy. Chúng ta chỉ có thể có những giả thuyết. Song vẫn có một quan hệ họ hàng giữa các phương ngữ Tây Nguyên, họ hàng về âm thanh, từ vựng, cấu trúc, cách biểu đạt.
Bảng đối chiếu sau đây rất đáng chú ý về mặt này (xem bảng I) Nó gồm các từ thông thường thuộc các lĩnh vực khác nhau. Ðôi khi cách thức ghi từ che lấp một sự giống nhau về âm mà tai nghe có thể nhận ra.
Bảng I
Pháp   Biat   Stiêng   Bana   Mạ   Srê   Raglay   Noang   Giarai   Êđê 
Cá       ka       ka         ka     ka    ka      kan      kan        akan   kan
Ngựa  cheh    pese      öxeh  aseh aseh alang     alang      aseh   aseh
Gấu     kao      kou     xögau  jirkao jirkao krih     krih        jögau  k gao
Chim  chium                xem    sim    sim  chim    chim       chim    chim
Bay    m par     par        par    par    par   par      par          par   phiör
Ðồng   kong    kong     kong   kong  kong kong    kong       kong   kong
Vỡ     chah            pöchah   böcah böcah böcah böcah pöchah m chah
Mẹ     me      me       me       me      me     ma     ma        ami      ami
Thần Brah   Yang      Brah     Yang  Yang  Yang  Yang Yang Yang Yang
Những tên riêng của người, giống nhau ở nhiều tộc người, dù họ ở rất xa nhau, càng xác định sự thống nhất cội nguồn đó.
Việc xem xét từ vựng cho phép ta nhận ra, trên một nền tảng dường như là chung, những ảnh hưởng từ bên ngoài đến nhóm ngôn ngữ, một phía là từ người Khơme, phía khác từ người Chàm. "Ông chủ" trong tiếng Bana là gru, trong tiếng Srê làpogru; đấy chỉ là cách nói khác của kru trong tiếng Cămpuchia (đến lượt nó lại gần với guru của tiếng sanscrit). "Chim", Bana là xem, Srê là sim, Êđê là chim, Chàm là chim. "Bao", Chàm và Mã Lai là sarun, Srê là sömprung. "Cày", Srê làngal, Chàm là lanal, Mã Lai là tangala. "Người", Srê là bönus, Chàm là man,Sanscrit là manus.
Các phương ngữ Tây Nguyên được xếp vào nhóm các ngôn ngữ Inđônêdiêng, trong đó có cả tiếng Java, Mã Lai. Chúng tôi cũng được nghe nói đến một phương ngữ, rất gần với tiếng Bana, được nói ở các đảo Nicobar.
Tiểu nhóm các phương ngữ Tây Nguyên cho phép ta nhận ra ở đấy một sự thống nhất trong các sự khác nhau của chúng. Các phương ngữ này có tính chất chung là dính kết và đa âm. Quả là một số lớn từ là đa âm, nhưng có những từ hai và ba âm, những từ gồm có một gốc và những phụ tố, cũng có những từ không thể tách rời.
Sự phong phú về âm khiến mọi việc phiên âm đều khó khăn; dường như không bao giờ có thể tìm ra đủ các nguyên âm trong chữ cái của chúng ta để ghi lại một cách thỏa đáng. Thay vì làm cho các chữ cái la-tinh mang nặng thêm các ký hiệu quá nhiều và xồm xoàm, gần đây người ta đã thỏa thuận chỉ dùng các ký hiệu phổ thông và thông dụng, đủ để viết các từ trái ngược nhau. Ở đây chúng tôi đã dùng cách la-tinh hóa đó để phiên âm các phương ngữ Tây Nguyên.
Không có giọng; ngữ điệu của giọng nói là tùy theo từng người và tương ứng với cả câu, giống như trong các ngôn ngữ châu Âu.
Tư duy Tây Nguyên là tư duy viễn đông; điều đó biểu hiện trong ngôn ngữ bằng tình trạng rất phong phú của các từ ngữ cụ thể, đặc biệt các từ ngữ nói về các hoạt động thường ngày, việc trồng trọt, các kỹ thuật, nhiều đến mức làm rối trí những người học các phương ngữ, và khiến cho diễn từ đạt đến một sự chuẩn xác đáng kinh ngạc. Với một từ "mang" duy nhất trong tiếng Pháp, người Tây Nguyên có đến một chục từ ngữ tùy theo chỗ ta mang bằng tay, trên vai, một mình hay cùng nhiều người khác, v.v. Và lắm khi ta phải dịch mỗi một từ ngữ đó bằng cả một câu nói vòng dài.
Các từ đa âm thường là các từ ghép. Cách cấu tạo chúng tuân theo những quy luật cố định, cho phép ta khi cần có thể tạo nên những từ mới nếu ta muốn làm cho ngôn ngữ được phong phú, chẳng hạn để du nhập một từ vựng khoa học mới. Các quy luật đó là chung cho các phương ngữ khác nhau. Hiện tượng này có thể thấy trong các ví dụ sau đây được chọn trong hai phương ngữ cố tình xa nhau:
Trong tiếng Bana, dar có nghĩa là "một vòng"; thêm tiền tố pö, trở thành pödar: "vây bọc lại"; trong tiếng Srê dar  pödar cũng có nghĩa hệt như vậy. Trong tiếng Bana, pö hay töđứng trước một động từ hành động có nghĩa là "làm cho"; như vậy ta có gan (đi qua) và pögan (đưa qua); kram (nhúng) và pökram (ném [xuống nước]); mut (vào) và tömut (đưa vào). Trong tiếng Srê cũng như vậy, chỉ có điều tiền tố có nghĩa là "làm cho" luôn là tö (đôi khi là tön hay tör do luật hài âm):gan(đi qua) và tögan (đưa qua), nyhöp (nhúng) và tönyhop (ném [xuống nước]); mut(vào) và tömut (đưa vào). Trong tiếng Giarai, người ta cũng nói gan và pögan;kram và pökrammut và pömut.
Cách đo, giống nhau ở tất cả các tộc người, cho ta những khái niệm dân tộc học quý báu. Người Tây Nguyên không biết đến trọng lượng; họ chỉ tính các độ dài, các dung lượng, là những đơn vị đo lường duy nhất dùng trong trao đổi. ngay cả một con trâu cũng được tính theo độ dài bộ sừng của nó. Các đơn vị đo độ dài tương quan với cơ thể con người: từ bề ngang ngón tay cho đến sải tay, có không ít hơn mười lăm đơn vị "chính xác" được thông dụng (bàn tay, gang tay, khuỷu tay... và tất cả các đơn vị chia nhỏ của chúng).
Cách đo thời gian tương ứng với vị trí của mặt trời để tính các giờ ban ngày, với tiếng gà gáy để tính các giờ trong đêm, với hình thù mặt trăng để tính các ngày trong tháng.
Khoảng cách được tính bằng thời gian phải đi: làng ấy cách đây ba "đêm" đi, nghĩa là cách bốn ngày đường, vì người ta phải ngủ đường ba đêm.
Ðiều này đưa chúng ta đến chỗ nghiên cứu lối đánh số của người Tây Nguyên. Ta sẽ nhận thấy những sự khác nhau, nhiều lúc có vẻ không dung hòa được (xem bảng II).

Bảng II
      Biat Stiêng Bana Mạ Srê Raglay Noang Giarai Êđê Chàm
1    muoi  mui     ming dul dul     sa        sa       sa     sa     sa
2    bar   bar      bar   bar bar   dua      dua     dua    dôa   dua
3     pe   pe      peng  pe  pe    klô       klao    klao   tlao    klau
4   puon puon  puön puön puan pa         pa      pa     pa     pak
5   pram pram pödam pram pram lömü   lömü   röma   ema    limö
6   prau prau tödrou  prô   prau lönam lönam   nam    nam   nam
7   pah pöh töpöh    poh    poh töjuh  töjuh    töjuh   kjuh   tijuh
8 pham p ham töhngam pham pham lapan dölpan sopan epan dalapan
9  chin sienh töxin sin sin salapan salapan duaröpan doapan salapan
10 djet   djimat  jit   jêt   jöt   söpluh   sôplu   pluh   pluh     pluh
1000 r bau diban röbau röbu röbu r tu r tu röbao etuh ribau
Bảng III
      Pháp Biat Stiêng Bana Mạ Srê Raglay Noang Giarai Êđê (Chàm)
một muoi mui ming dul dul sa sa sa sa sa nước dak dak dak daa daa ya ya ia
lửa ugn ugn unh pui ous pui pui apui pui apuei
thóc ba ba ba koe koe bödae pöde
lúa phe p hey phe phe phe brah brah breh braeh
cơm piang poi - por piöng piang por sei sei ase êsei
trống gor s ngör xögor högôr (I) söngör söngör sögör sögör hagör hgör hagör
chiêng tchign cheng xar (I) cing cing car sar car ching ching cin
lợn chör sur nhung sur sur un (I) bui bui un un
gà mái iar ir ir ir iar mönu (I) mönu mönu mönu m nu
vào lap lap mut mut mut tama tama mut eran
nuôi chiam tchim xiem siam siam rong (I) siam siam rong chiem rong ciam
mua r wat ruöt ruöt roat blei (I) roat roat ble bley 


(I) Hai hình thức được sử dụng khác nhau

Bảng này cho thấy rõ có hai tiểu nhóm ngôn ngữ mà chúng ta có thể ngỡ là không thể quy làm một nếu chúng ta không biết mối quan hệ họ hàng gần gũi giữa các phương ngữ. Chúng ta còn nhận thấy một sự đồng nhất về cách biểu đạt trong mỗi tiểu nhóm: một bên là các phương ngữ Biat, Stiêng, Bana, Mạ, Srê; bên kia là các phương ngữ Raglay, Noang, Giarai, Êđê. Trên bảng, nhóm bên trái đã chịu ảnh hưởng Khơme càng rõ hơn khi ta càng đi về phía trái. Các phương ngữ ở phía phải, nhất là tiếng Raglay và Noang, chịu ảnh hưởng Chàm [2] . Mọi việc diễn ra cứ như một cái gốc nguyên thủy chung cho các phương ngữ Tây Nguyên đã được đổi khác đi tùy thuộc vào nơi về sau mỗi tộc người cư trú và theo những "tuyến năng lượng" của các dân tộc láng giềng phát triển hơn do đó gây ảnh hưởng, như những người Khơme hay Chàm. 
Tiếp tục phân tích các phương ngữ, bây giờ chúng ta lập một bảng (xem bảng III) cố ý chọn các từ rất thông dụng. Những sự khác nhau mới lại nổi lên, buộc ta phải phân chia thành những tiểu nhóm nữa. Vấn đề các phương ngữ này đặt ra rất phức tạp; chúng ta không tìm cách rút gọn chúng đi, mà là khoanh vùng chúng lại. 
Những sự khác nhau là gì? Ðôi khi chỉ là một vấn đề về nguyên âm, cái khung cốt các phụ âm đều giống nhau: như, "gạo" tiếng Raglay là brah và tiếng Giarai làbreh; "gà mái" tiếng Srê là iar, tiếng Bana và Stiêng là ir. Hiện tượng này rất thường gặp; nó diễn ra thậm chí bên trong tộc người ở đó ta có thể nhận thấy các nguyên âm thay đổi từ làng này qua làng khác. Như ở vùng Srê, trong khi ở làng này nói â (a đóng) thì ở làng bên cạnh chỉ cách một giờ đi đường lại nói ö
Ta cũng nhận thấy có sự chuyển động của các phụ âm, thường theo những quy luật cố định; như thóc trong tiếng Raglay là bödae, pöde trong tiếng Giarai; thường chuyển từ âm gió sang âm bật hơi: xögör (Bana), sögör (Srê), högör (Bana),hagör (Giarai), hgör (Êđê). Hai hình thức xögör  högör dùng trong tiếng Bana, cái đầu gần với nhóm Srê, cái sau gần với nhóm Êđê. Một số phụ âm rơi ra, một số tiền tố thêm vào, nhưng cái gốc vẫn nguyên. 
Tuy nhiên còn có những hình thức không thể rút chung lại, như ous và pui (lửa). Ta có thể kết luận là có một sự du nhập từ bên ngoài, một phía là Khơme, phía kia là Chàm; nhưng người Tây Nguyên, trước khi một số người này Khơme hóa, một số người khác Chàm hóa, tất đã phải biết lửa. Có thể một hình thức xưa đã bị mất đi. Vấn đề vẫn còn nguyên vẹn. 
Nghiên cứu Bảng III, ta nhận thấy lần này có ba nhóm ngôn ngữ (do nhóm từ Biat đến Srê được chia đôi ra): tiểu nhóm 1, gồm các phương ngữ Biat, Stiêng, Bana; tiểu nhóm 2, gồm các phương ngữ Mạ và Srê; nhóm 3, gồm các phương ngữ Raglay, Noang, Giarai và Êđê. Bên trong mỗi nhóm, ta còn có thể phân biệt ra những mối họ hàng gần nhau hơn: Biat và Stiêng, Raglay và Noang, Giarai và Êđê.
Nhiều phương ngữ có những hình thức lạ đến từ tiểu nhóm bên cạnh: "lửa" trong tiếng Mạ là pui, khiến nó giống với tiểu nhóm 3; "chiêng" trong tiếng Bana làcheng hay xar, hình thức sau giống với tiểu nhóm 3. Mut (vào) là một hình thức thấy có ở mỗi tiểu nhóm, ít nhất là trong một phương ngữ. Chứng tỏ trong khoa học nhân văn, không có những định luật chặt chẽ. 
Chúng ta thấy có hai hình thức song song được sử dụng trong một phương ngữ, ấy là do hiện tượng có hai nguồn ảnh hưởng. Phương ngữ Srê đặc biệt phong phú những hình thức đôi như vậy (sur và uniar và mönu,...), một cái giống với tiểu nhóm 1, cái kia giống với tiểu nhóm 3. Ðiều này tạo cho tiếng Srê một vị trí ưu tiên, trung gian giữa hai nhóm phương ngữ, và làm cho nó trở thành "hiện trường ngôn ngữ" nơi gặp gỡ và cân bằng các ảnh hưởng, vả chăng điều đó có tương quan với vị trí địa lý của những người Tây Nguyên nói tiếng Srê. Có thể điều đó cắt nghĩa vì sao phương ngữ Kơho được nhiều tộc người khác hiểu trong khi người Kơho không hiểu một phương ngữ nào khác. Ðấy là tính chất chung của tất cả các dân tộc có ngôn ngữ được hiểu ở nước ngoài và, do đó, chẳng hề cố gắng học một ngôn ngữ khác. 
Sau khi đã nhìn tổng quát về cộng đồng các phương ngữ và phân tích những sự khác nhau giữa chúng, có thể đi đến ý tưởng tổng hợp sau đây: các tộc người gần nhau về mặt địa lý thì nói các phương ngữ gần nhau, những tộc người xa nhau về địa lý đôi khi lại xếp trong cùng một tiểu nhóm ngôn ngữ (Raglay và Êđê chẳng hạn), các vách ngăn giữa các tiểu nhóm đặc biệt không phân định ranh giới cho các loại hạng nhất thiết xa lạ với nhau. Các tiểu nhóm ấy không phải là một ngôn ngữ nguyên gốc. Do đó, dường như có thể giả định sự tồn tại của một ngôn ngữ nguyên gốc chung cho tất cả các tộc người. Ðến đây ta gặp lại kết luận của nghiên cứu chủ yếu mang tính dân tộc học đã làm trên kia. Cách cắt nghĩa theo truyền thống của người Tây Nguyên về "cội nguồn chung" của họ, như vậy là hoàn toàn có thể chấp nhận. 
Các dòng chảy con người
Trong khi hát kể các truyền thuyết truyền thống, các truyện kể cổ xưa, người Tây Nguyên hình dung tổ tiên của họ là những nhà du hành vĩ đại. Vì những lý do gia đình, vì một mối quan hệ hôn nhân với một "người con trai của lục địa", họ rời bỏ quê hương ở phía "mặt trời mọc", băng qua biển cả và đi đến "xứ sở phía mặt trời lặn". Bao nhiêu bài ca đã ám chỉ đến cuộc vượt biển ấy! Như vậy tình trạng ở biển của họ đã khiến thuở ấy họ đã phải làm như vậy. Trước khi biết người Chàm, họ hẳn đã từng sử dụng chiếc thuyền độc mộc để đi lại ven biển và cả biển xa, nơi họ gặp cá voi. 
Rồi đến cuộc di cư lớn để đến chiếm vùng lục địa là Ðông Dương ngày nay. Dường như trong nhiều thế kỷ, đã có những cuộc chuyển động quan trọng tiến sâu dần vào nội địa, lên chiếm vùng núi, vượt qua núi để đến cư trú trên những cao nguyên nằm ở phía bên kia, đi xuống khai phá những thung lũng màu mỡ. Việc định cư, trên một vùng đất riêng, của các nhóm sẽ trở thành những tộc người mang tính cách riêng, không chỉ diễn ra trong thời gian một thế hệ; đấy là dịp của những cuộc chuyển cư liên tục, thử nghiệm, thiên di, quay trở lại. Một khi các tộc người đã định cư, các cuộc di cư không vì thế mà ngừng lại, song qui mô nhỏ hơn; các cuộc đan chéo trộn lẫn các nhóm vào nhau và là nguồn gốc của các tộc người nhỏ "kiểu hỗn hợp" mà ta có một ví dụ ở người Noup mang tính chất của nhiều tộc người láng giềng. Ở ranh giới địa lý của một tộc người, ta thấy có những nhóm làng mang dáng vẻ trung gian. 
Một tộc người đã định cư, những nhóm nhỏ người, bên trong tộc người đó vẫn còn đi tìm một vùng đất để trồng trọt, điều đó đòi hỏi nhiều chuyển động trước khi đứng lại tại chỗ. Cư dân vùng Drong-Klong, phía nam Ðà Lạt, di cư về hướng nam để tìm những vùng ruộng tốt hơn và lập nên năm làng Drong cách nơi xuất phát của họ sáu mươi cây số. Một truyền thuyết kể lại cuộc di cư này theo cách huyền thoại và thơ mộng. Rồi các thành viên của những làng Drong này, trở nên quá đông, đất có thể làm ruộng nước không còn đủ, lại di cư tiếp về phương nam để tìm đất làm rẫy. Ðể làm việc đó, họ vượt qua vòng núi và đổ xuống trên một cao nguyên. Hiện nay họ làm thành một tiểu nhóm người Srê gọi là Rölöm. 
Các tộc người chỉ làm rẫy di chuyển trong một chu vi nào đó trong năm, mười hay mười lăm năm, để tìm đất mới khai phá và trồng trọt; như người Mạ và người Raglay. Các bản đồ những vùng ấy cứ năm này sang năm khác lại sai đi: các làng thay đổi; các con đương đổi khác, những con đường mới được vạch ra, những con đường cũ bị xóa đi. Tùy theo chỗ các tộc người làm rẫy hay làm ruộng ở chỗ bằng mà các làng thành ra phân tán hay cụm lại. 
Các tộc người đã định cư trong xứ sở như vậy không vì thế mà trở thành cô lập hẳn với nhau. Có những dòng chảy theo mùa - các cuộc du hành theo đúng hạn hay bất ngờ - đi thăm viếng bè bạn, cưới xin - tiếp tục trộn lẫn và nhào trộn các dân tộc này. 
Dưới nền đô hộ của người Việt, mỗi năm một lần người Tây Nguyên đi xuống biển, vùng duyên hải. Ðấy là dịp đi đóng thuế; họ nhân thể mua bán. Ðến mùa khô, vụ thu hoạch xong, mọi người, gùi đeo trên lưng, lên đường, cả gia đình, đàn ông, đàn bà, trẻ con. Họ đi đến vùng người Mạ, người Srê, người Raglay... Họ mang theo những tấm chăn, da thú vật, heo, mà họ sẽ đổi lấy quần áo, muối, ché. Họ đi theo những con đường truyền thống xuyên qua vùng Tây Nguyên từ Tây-Bắc xuống Ðông-Nam, vượt qua núi, men theo các đỉnh, đổ xuống đồng bằng và cuối cùng đến Phan Thiết, hoặc Phan Rang, hoặc Nha Trang, ở xứ Việt. Ðấy là những con đường lớn của một thời, "con đường của các thủ lĩnh", gung Böjai (đường đi Phan Thiết), gung Phöri (đường Phan Rí). 
Các cuộc du hành dài có khi kéo đến nhiều tuần, vì mang nặng, ấy là những dịp vui thú, mà những người Tây Nguyên ngày nay kể lại một cách thích thú, thăm viếng, trao đổi với các tộc người gặp dọc đường. Ta có thể hình dung phần nào không khí hồi bấy giờ, qua những câu chuyện kể truyền thuyết ca ngợi các cuộc du hành ngày xưa đó. 
Như bài thơ Mạ sau đây, cũng rất phổ biến ở vùng người Srê: 

"Thuở bấy giờ những người láng giềng của chúng ta, các thủ lĩnh Cămpuchia và các thủ lĩnh Lào tranh giành quyền lực với nhau. Họ ganh đua nhau xem ai giàu hơn ai, về chiêng về trống; họ đối xử bạo ngược với những người nghèo. 
"Sörli và Sun rời làng - ở tít tận phía Ðông-Bắc xứ người Mạ - đi xuống phía ven biển. Họ ăn mặc rất đẹp. Họ mang theo bao nhiêu thứ đẹp để đổi lấy muối và cá của người Việt; họ mang nào gỗ thông, nào ngà voi, nào tấm chăn, tất cả đều là hàng hóa có nhiều giá trị; họ dắt theo một con dê to. Trên đường đi về phía biển, họ đi qua những làng ở đó đàn ông, đàn bà đi theo họ, mang theo những gùi gạo, những tấm chăn do họ dệt. Ðoàn người lúc đầu còn ít cứ qua mỗi làng gặp trên con đường Phöri lại đông dần lên. 
"Họ đi đến con suối có "nước biết đánh nhạc", một ngọn thác nơi nước rót lên một mảnh tre vang lên âm thanh giống như mboat [3] , nghe hay đến nỗi mọi người đi qua đều dừng lại, mê mẩn vì tiếng nhạc của nước. Plöm, thủ lĩnh làng Kon-Yaê, Tom, thủ lĩnh làng Kon-Tach, đi trước; họ đập vỡ nhạc nước ở ngọn thác du dương, thác Löyang Köjong; họ làm bẩn nước khiến đến ngày nay nước không còn hát nữa. Ðoàn người đi theo họ, sau khi đã dừng lại qua đêm ở đó. 
"Cuộc đi rất vui, rất nhiều phụ nữ đi mua đồ trang sức. Những người trai trẻ đùa giỡn với họ. Một nàng nói với Sörli: 
- Nếu anh muốn chúng ta sống với nhau, thì đến "chợ lớn" anh tìm cho em một chiếc váy thật rộng, em rất thích một chiếc váy như thế; một tấm chăn thêu, em thích lắm; một tấm chăn màu xanh, rồi lụa nữa, em sẽ mừng lắm. 
- Vậy thì chúng ta cùng đi, Sörli trả lời. Khi trở về nhà, em sẽ làm việc ở nhà anh, em sẽ nuôi heo và heo sẽ béo lên; chúng ta sẽ mua thêm nhiều heo nữa ở làng Kon-Hin, làng Bösrê, làng Köyan, ơi em gái của anh. Ta đi cùng em, cô em gái nhỏ, ta đi xuống biển, và ta mặc áo quần thật đẹp vì em. Ta sẽ cúng thần, ơi em; ta rưới máu gà máu dê trên mặt đất. Trong ba tháng nữa, sẽ là lúc chúng ta đang cùng nhau làm ruộng, ơi em gái, trong bốn tháng nữa chúng ta đã xong. Trong chín tháng nữa chúng ta sẽ làm một căn nhà sàn cho hai ta, ơi em, trong mười tháng nữa chúng ta sẽ sống ở đấy cùng nhau, ơi em gái. 
- Anh hãy đi trước để chuẩn bị mọi thứ; em là con gái, em đi sau, và gùi của em rất nặng. Em là em gái của anh, em mang nồi cám đun nuôi con lợn trên đường để anh đem bán ở chợ. Anh hãy đi tìm dây rừng để trói con lợn đi, tìm những dây mây thật đẹp, những dây leo thật chắc. 
- Ta sắp đến nơi rồi đây, ơi em. Chúng ta sẽ ngủ lại đây đêm nay, chúng ta sẽ ngủ bên bờ nước, ơi em. 
"Ðến chợ, họ mua đủ mọi thứ cần thiết; họ mua bát, cúc áo mạ vàng, quần áo đẹp. Ðêm trở về đã đến: "Chẳng còn bao đêm nữa, ơi em; bây giờ là lúc phải trở về. Hãy mang gùi lên và trở về, ơi em. Ta nhớ mẹ ta, ở trên kia; ta muốn thấy em gái ta ở quê. Hãy trở về nhà, nơi ta sẽ đón em, ơi em gái". 
Người Tây Nguyên mới biết đến bạc, tiền trong thời gian gần đây. Ngày xưa, ngay cả thuế cũng được đóng bằng hiện vật (da súc vật, lợn, v.v.) Mọi việc mua bán, ngay đến hiện nay vẫn vậy, đều tiến hành bằng trao đổi. 
Mùa khô, giữa vụ thu hoạch và thời kỳ đốt rẫy, là thời gian lý tưởng cho các cuộc du hành, đi xuống vùng duyên hải hàng năm, những cuộc đi liên miên đến các tộc người khác để đổi chác. Ngày xưa người Tây Nguyên, được tự do hơn, tìm cách sản xuất thừa: họ có thời gian và phương tiện. Bằng cách đó họ kiếm được những sản phẩm mà họ thiếu. Họ đi lại tự do, trao đổi những gì họ muốn, ở nơi họ muốn. Việc mua bán diễn ra vui vẻ, thuận hòa. 
Các tộc người giàu thóc gạo cố sản xuất thừa để đem đến vùng người Mạ đổi lấy những tấm chăn và quần áo vải bông; ngà voi, ché, chiêng thì đổi tận bên Cămpuchia. Những tộc người không làm ra được đủ lúa ăn thì lại có một thứ công nghệ nào đó cho phép họ đem sản phẩm ấy đổi lấy ngũ cốc, hoặc những người làm ruộng tìm đến chỗ họ, hoặc chính họ mang hàng đến đến đổi lấy gạo tại chỗ. Ðôi khi cả hai phía đều ngày càng giàu có khá giả lên. Ngày nay, trong các nhà giàu, ta còn thấy những chiếc chiêng cổ rất quý, nguyên gốc Cămpuchia hay Lào, là bằng chứng của những cuộc trao đổi thời phồn thịnh ấy. 
Các cuộc đi lại mua bán ấy có khi cũng là dịp cho các cuộc hôn nhân. Nói chung, người Tây Nguyên lấy nhau trong tộc người của mình, thông thường ngay trong làng mình. Nhưng cũng có khi họ đi tìm vợ ở một tộc người bên cạnh, ở lại luôn phía vợ hay đưa vợ về làng mình, tùy theo tập tục của chế độ mẫu hệ; nhưng những cuộc hôn nhân với người nước ngoài - da vàng hay da trắng - rất hiếm và bị coi là hôn nhân không tương xứng. Các cuộc hôn nhân giữa những người khác tộc đó tuân theo những sự gần gũi nhau vốn có giữa tộc người này và tộc người nọ, chẳng hạn giữa người Mạ và người Srê, người Srê và người Noang. 
*
Các nhân tố địa lý, chính trị, dân tộc học, đã vẽ nên trên bản đồ Tây Nguyên những con đường thông thương lớn, cũng đồng thời là những tuyến ảnh hưởng. Các con sông, phụ lưu của sông Mê Kông nối liền người Mạ, người Stiêng, người Bana, toàn bộ vùng Tây-Bắc cao nguyên với Cămpuchia và Lào, những con đường ở đó việc buôn bán rất sôi nổi, bằng thuyền độc mộc có thể chở đến hai trăm kilô. Ðấy là những con đường lớn, gung bötau như cách gọi của người Srê ngày xưa, xuyên qua cả xứ sở rừng núi từ Tây-Nam đến Tây-Bắc, những con đường của người Mạ dùng voi để chở hàng, đường của người Srê đi về phía Blao hay Ðà Lạt, đường của người Raglay đi đến vùng người Noang, đường của người Bana đi đến vùng người Xơđăng, hầu như bao giờ cũng song song với các dãy núi. Ðấy là những "con đường muối" của người Tây Nguyên đổ xuống phía Ðông-Nam đến bờ biển Trung bộ, người Bana xuống Qui Nhơn, người Noang xuống Phan Rang, người Mạ, người Srê, người Raglay xuống Phan Rang và Phan Thiết. 
Trên những con đường thông thương lớn đó diễn ra việc buôn bán trao đổi; chúng tạo nên những cuộc tiếp xúc và định hướng các ảnh hưởng. Chúng tạo cho một số tộc người những vị trí-chìa khóa, như làm cho tộc người Mạ trở thành một cánh cửa mở về hướng Cămpuchia, người Raglay thành một cánh cửa quay, vừa là nơi đi qua của người Noup và người Noang ở vùng Ðông-Bắc vừa là cánh cửa mở xuống vùng duyên hải Ðông-Nam. Chúng cũng khiến cho người Raglay trở thành những người trung gian giữa cư dân trong nội điạ với người Chàm, rồi với người Việt. Ngày nay vẫn còn dấu vết của cái ngã tư con người đó: ở một làng nhỏ dường như mất hút trên những ngọn đồi khô cằn, làng Yabö, có một gia đình mang dòng máu trộn lẫn từ nguồn gốc, một phần Mạ, một phần Srê. Chỉ trong một căn nhà sàn, ta có thể nghe nói cả tiếng Mạ, tiếng Srê lẫn tiếng Raglay. 
Do những điểm gặp gỡ tạo nên bởi các con đường lớn ấy, người Tây Nguyên đã trộn lẫn vào nhau, hoặc bằng cách đến cư trú trong một nhóm bên cạnh - điều khiến cho những nét đặc trưng của mỗi tộc người bị che lấp đi - hoặc bằng những tiếp xúc lặp đi lặp lại khiến không có tộc người nào không được biết đến. Những tộc người hay đi du hành nhiều nhất biết phương ngữ của các tộc người được xích lại gần, và do đó, cả phong tục tập quán của họ. Một khi đã biết nhau, họ thán phục nhau, phán xét nhau, phê phán nhau: người Mạ thông cảm với người Srê hơn; họ cần thiết lẫn cho nhau. Người Êđê nhìn người Srê như những kẻ hạ đẳng đáng khinh, người Srê đến lượt mình lại xem những người Cil khốn khổ như loại người hạng bét, và người Cil, chẳng chút tự tôn, sẵn sàng chấp nhận. Các ngọn núi dốc đứng khô cằn của họ chẳng phải không làm phai nhạt tính cách của họ. 
*
Người Tây Nguyên ngày xưa là vậy đó, những nhà du hành lớn, nhưng không phải là người du cư. Ngày nay không còn như thế nữa. Các biến cố chính trị, các cuộc chiến tranh khiến các con đường không còn an toàn; những sự gò bó của chế độ thuộc địa khiến các khối người trở thành bất động. Ở một vùng, người Tây Nguyên không dám phiêu lưu quá xa; ngoài ra họ chẳng còn có thì giờ rong ruổi trên đường. Kết quả là tình trạng nghèo khổ và một sự suy thoái nhất định. 
Các cuộc du hành ngày nay bị hạn chế về nhịp độ và tầm đường. Thời kỳ được lựa chọn luôn là mùa khô, sau vụ thu hoạch; nhưng người ta đã bỏ các con đường lớn. Người ta không còn đi về phía duyên hải, mà là về các tỉnh ly trong nội địa nơi người Việt đã đến và độc quyền buôn bán. Người Srê chẳng hạn, chỉ còn thấy người Mạ đến chỗ mình mang theo những tấm chăn để đổi lấy gạo, hay người Raglay bán những loại dược thảo đổi lấy gạo mà họ cũng thiếu. Chính người Srê cũng ít đi ra khỏi xứ, nếu không phải là đi mua một con trâu ở nơi người Mạ gần nhất, hay những sản phẩm tre đan nơi người Rölöm, cần thiết cho công việc tối thiểu hàng ngày. 
Chẳng phải vô cớ nếu ta kết luận rằng, trong lĩnh vực này, người Tây Nguyên chẳng được lợi lộc gì với sự thay đổi nền thống trị, làn sóng châu Âu đã đẩy lùi sự đi lại, làm khô cạn các dòng trao đổi và làm thụt lùi sự phồn vinh ngày xưa. 
_____________________
[1] Ddửs pửnddik là từ Srê dùng để chỉ ngôn ngữ thiêng, bí hiểm, cổ xưa, dùng để hát các truyền thuyết, ngôn ngữ huyền bí ngày nay ít ai hiểu, nhưng lại chung cho tất cả có tộc người. Hiện tượng này cũng thấy ở người Chàm, cũng như ở hầu hết những người malayo-pôlynêdiêng. 
[2] Người Bih, ở Ðông-Nam Daklak, là một tộc người nói tiếng Chàm.

----------------------------------------------------------------------------------------------


Phần IV

Diện mạo Tây Nguyên

Khi người Xơđăng ra trận - Người Xơđăng là một dân tộc thợ rèn. Xứ sở của họ, có những dải núi cổ, giàu mỏ sắt. Khi công việc nương rẫy đã xong, hơn sáu mươi làng lo đi khai thác quặng, nấu luyện, rèn, và đưa đi bán dưới dạng rìu, cuốc, xà-gạc, dao, dáo và kiếm. Dù họ đã cung cấp khá nhiều các thứ ấy cho những người láng giềng, họ vẫn còn có thể xuất khẩu số lượng lớn nếu họ không thiếu công cụ và phương pháp để xuất khẩu. Một cái bệ gồm hai ống lớn, trong đó chuyển động những pít-tông làm bằng da nai, một tảng đá hoa cương làm đe và một hòn đá làm búa là tất cả đồ lề trong nhà máy của họ. Người Xơđăng không dệt vải; nghề rèn chiếm hết thời gian rảnh rỗi của họ và cung cấp cho họ mọi thứ cần thiết, bằng con đường trao đổi.
Khi một làng muốn tấn công một làng khác, họ không bao giờ lên đường mà không bói xem chiến dịch có thành công hay không. Họ chẳng thiếu phương tiện để đảm bảo việc đó. Trước khi bước ra khỏi nhà rông, họ bói bằng một cái rễ cây rất có hiệu lực tiên tri. Một trong những người chỉ huy cuộc tấn công chặt cái rễ ra làm ba khúc mà ông ta đặt trên lưỡi kiếm của mình và sau đó để cho chúng rơi xuống từng cái một trên chiếc khiêng của ông, vừa khấn. Nếu các lát rễ quay về phía thuận lợi, đoàn quân sẽ bách thắng. Lúc ấy, những chiến binh dũng cảm nhất đứng dậy, cầu xin Thần cho một thành quả thật tốt đẹp, và trình với Thần các nguyên do của cuộc chiến. Rồi ông ra đi. Tất cả những người khác lộn xộn đi theo ông, trang bị khiên, ná, kiếm và giáo.
Ngày hôm đó, mỗi người đều đóng chiếc khố đẹp nhất, mặc áo nếu họ có, và một tấm vải nhỏ, màu trắng hay xanh mà họ vắt chéo ngang ngực làm vật trang trí. Tất cả đồ dự phòng gồm một suất gạo và thuốc hút đủ ba ngày. Các chiến binh đôi khi chia thành hai hay ba tốp và quy định một điểm tập kết. Vừa ra khỏi làng, họ vừa đi vừa lắng nghe tiếng chim. Nếu tiếng chim báo điềm lành, lại thêm không gặp chuột trên đường, nai không tác trong rừng, thế là họ đi rất hăng hái và dũng mãnh. Ðôi khi họ thấy một con chim săn mồi lượn trên cao và kêu những tiếng lảnh lót: vậy là mong ước của họ được phỉ nguyền: "Ði lên, nào anh em, diều hâu kêu, ta sẽ được con mồi tốt".
Thông thường họ đi theo những con đường mòn ít ai đi nhất, e rằng kẻ thù sẽ biết được tin kịp thời và chuẩn bị đối phó. Ít khi họ dám tấn công một làng; thường là đánh bất ngờ và dựa vào bóng tối; trước hết họ muốn không để lại người chết trên chiến trường và không phải trộn lẫn nước mắt với niềm vui chiến thắng. Thông thường nhất là họ phục kích quanh một cái rẫy cô lập, kiên nhẫn chờ kẻ thù tự đến sa vào tay họ; họ sẽ vây chặt, chộp lấy, tròng dây vào cổ và kéo đi thật nhanh, vừa hò hét vui mừng và thét những lời đe dọa khủng khiếp, cứ như họ sẽ phanh thây kẻ thù ngay tức thì. Khi người sa vào ổ phục kích là đàn bà hay trẻ con, việc bắt giữ dễ dàng; nhưng nếu là những người trai tráng hay những người đã già dặn, khó lòng bắt được mà không phải đổ máu, bởi những người đó không bao giờ dễ hèn nhát quy hàng.
Các cuộc chiến tranh này tàn hại hơn nhiều khi người chiến binh quyết định đi tấn công kẽ thù ngay tại giữa làng của họ. Khi đó người đi tấn công có nhiều người hộ trợ đi theo; tận dụng đêm tối họ tiến đến sát mục tiêu, và nếu họ có thể phá rào mà không gây ra tiếng động, họ bổ nhào vào các nhà, cắt cổ kẻ nào kháng cự, cả những người già mà họ sẽ chẳng lấy được chút lợi lộc gì, bắt nhiều tù binh đàn bà và trẻ con, cướp bóc mọi thứ và vội vã rút lui, sợ các xóm chung quanh có thì giờ chặn mất đường rút. Khi cuộc chiến thắng lợi, các chiến binh trở về làng, vừa hò hét, nhảy các điệu múa chiến thắng và tự hào vung kiếm tuốt trần. Ngay tức thì người ta giết một con dê để tạ Thần; rồi người ta uống cạn nhiều ché rượu cần, người ta gõ những chiếc thùng lớn, đánh trống và thổi bằng tù và sừng trâu một thứ nhạc đơn điệu, đó là điệu mừng chiến thắng (ở vùng Xơđăng).
Tuy nhiên cuộc vui ấy không trọn vẹn, bởi họ biết kẻ thù sẽ sớm xuất hiện, đang căm uất và chỉ mong báo thù; cho nên họ phải tăng cường dự phòng và cảnh giác để tránh một cuộc tập kích bất ngờ sẽ mang đến những vụ khủng bố rùng rợn.
Sự cảnh giác ấy của người Xơđăng chỉ giảm đi chút ít sau khi đã bán những người bị bắt, hay khi làng thua trận đã chuộc họ về và hòa bình đã được thỏa thuận.
Mọi cuộc chiến tranh thắng lợi đều nhất thiết kéo theo những cuộc tiệc tùng và vui chơi công cộng. Số trâu bị giết trong dịp này ngang bằng với số tù binh bắt được của kẻ thù. Cuộc lễ hội ấy được báo trước mười lăm ngày bằng tiếng trống nhịp nhàng của đám thanh niên mỗi tối, vừa nhảy múa những điệu múa chiến đấu trong nhà rông.
Ngày hôm trước của lễ hội, các già làng họp nhau từ sáng sớm, vì phải lo việc buộc trâu; đôi người trai trẻ được phái đi tìm thứ rễ thần diệu có thể làm cho các cột lễ không thể lay chuyển. Họ ăn mặc thật đẹp và trang trọng đi làm nhiệm vụ. Mỗi con trâu được buộc vào một cây cột bằng một sợi dây dài bện bằng mây, để cho con trâu có thể chuyển động, nhảy lên và chạy vòng bốn phía, trong một bán kính nhiều mét. Các cây cọc được trang trí bằng những tua dài tung bay; chúng được cắm vây tròn quanh một cây cột là loại cây sống, sau đó nó sẽ tiếp tục lớn lên và nhắc nhở các thế hệ sau về một cuộc lễ và một vinh quang của những người xưa. Chính ở đấy người chiến binh sẽ đứng ngắm các nạn nhân của mình một ngày và một đêm trước khi hạ sát chúng. Ngay sau khi chúng vừa được cột, người ta đã tiến hành một điệu múa rước vòng quanh, theo nhịp trống và chiêng, kéo dài cho đến rạng sáng ngày hôm sau. Thỉnh thoảng người ta lại dừng lại một lúc để cất tiếng hú lớn chống lại kẻ thù đã bị đánh bại.
Trong khi đó nhiều ché rượu đã được bày ra đây đó trên mặt đất, và những đám người quây tròn vui vẻ hút chất rượu dễ say người, bằng những ống hút dài. Những vị khách mời kéo đến ngay, và đám người chẳng mấy chốc đã mênh mông.
Ngày hôm sau, khi trời vừa rạng sáng, tiếng nhạc tắt đi và những người trai trẻ cầm lấy vũ khí. Các con trâu, tượng trưng cho kẻ thù chiến bại, phải gánh lấy tất cả gánh nặng của mối căm hận đối với kẻ thù và nhân cách hóa chiến bại của chúng bằng một cái chết dã man. Ngay khi có tín hiệu đầu tiên, chúng đã bị găm một trận mưa mũi tên; chúng rống lên, sùi bọt mép, nhảy vung lên hung dữ về phía những kẻ tấn công. Nhưng mỗi cú nhảy, chúng lại vấp ngã và mang thêm những vết thương mới. Tiếp sau các mũi tên, đến cây gươm; những người khéo léo nhất hướng nhát gươm của họ vào đúng kheo chân nạn nhân mà cơn điên dại khiến cho nó còn đứng được khá lâu nữa trên những đôi chân đã trật khớp và bị chặt cụt. Cuối cùng toàn thân nó chỉ còn là một vết thương và mặt đất đã đỏ lòm máu của nó, nó ngã xuống: cây giáo đâm nhát kết liễu.
Một đống lửa lớn được đốt lên thui cháy lem nhem lớp lông; rồi con trâu được xẻ ra, chia phần, và buổi tiệc bắt đầu. Ðêm đến, các vị khách trở về làng của họ, chỉ còn mơ tưởng đến chiến tranh và chiến thắng. Cũng như cuộc lễ hội đã có một đêm thức, nó cũng sẽ có một ngày hôm sau để thanh toán nốt các tàn dư của bữa tiệc.
Sau các cuộc chiến đấu là các cuộc hòa giải. Ðể làm việc đó, những người mối lái khôn khéo đi đi lại lại từ bộ tộc này sang bộ tộc nọ, san bằng dần các khó khăn; cuối cùng họ đi đến được thỏa thuận và hòa hợp.
Người ta định ra một ngày để ký kết hòa ước, hòa ước phải được đảm bảo bằng một lời thề long trọng: hai làng họp nhau trong nhà rông của bên đã bắt đầu cuộc thương thuyết và mỗi bên chọn một trong những già làng hành động thay mặt tất cả dân làng. Bên này là một người đàn ông, bên kia là một người đàn bà. Những người đại biểu làm như sau: họ dùng một con dao và tự cắt vào một ngón tay mình; máu của họ sẽ nhỏ vào một cái cốc chung và được trộn lại với nhau; khi việc hòa trộn mang ý nghĩa ấy đã được thực hiện, mỗi người uống một phần vừa đọc những lời cầu khấn. Như vậy là cuộc liên minh đã hoàn thành. Ít ngày sau, người ta phê chuẩn hòa ước bằng cách lặp lại những nghi lễ như vậy ở nhà rông làng bên kia.
*

Ðời sống người Bana - Toàn bộ vùng đất Bana đều phủ một lớp rừng liên tục và dày đặc mà chiếc rìu của người "Mọi" đã đốn dần đi, nhưng lại tái sinh và lấp lại các lỗ hổng của nó nhanh nhóng và mạnh mẽ đến kỳ lạ. Ở đây không thấy có đồng bằng, trừ phía Ðông-Nam và phía Tây giáp với người Rơngao. Khắp nơi đều là núi, quả là không cao lắm, nhưng đan chéo nhau theo mọi hướng. Rất nhiều sông suối; một số đổ về phía đông, vùng Trung bộ; số khác đổ về phía sườn ngược lại, chảy dọc xứ đất Bana từ Bắc xuống Nam, ven vùng Xơđăng, và đổ về Mê Kông.
Ðất đai vùng Bana không màu mỡ bằng vùng các tộc người chung quanh. Tuy nhiên nhiều làng gieo một thu được đến trăm; song nhiều nơi gieo một chỉ thu được mười lăm đến hai mươi. Ít khi người Bana có đủ thóc ăn cho giáp vụ. Ðiều này cũng còn do cách canh tác của họ. Khi họ đốn hạ một góc rừng và đốt để làm rẫy, đất đai có một sức sống mạnh mẽ có thể bù đắp được trong hai hay ba năm những nỗi cực nhọc phải bỏ ra vì công sức lao động nặng nhọc đến thế. Nhưng những công cụ họ có không cho phép họ giữ được sự màu mỡ ấy; tất cả những gì họ làm và tất cả những gì họ có thể làm là chọc tỉa hạt giống xuống đất bằng một cây gậy vót nhọn, và sau đó làm cỏ bằng một chiếc cuốc con. Ðất không được xới lên kiệt đi rất nhanh. Sau ba vụ thu hoạch, nó bị bỏ và trả lại cho rừng.
Khi người Bana thiếu gạo, họ ăn các thứ lá và rễ cây trong rừng. Ðàn bà lo việc đi hái lượm, và khi bà không cung cấp được đủ cho cả gia đình, thì người chồng chia xẻ công việc bạc bẽo hàng ngày này. Thật đáng thương khi thấy những con người khốn khổ ấy bỏ cả buổi sáng đào bới đất để moi lấy mấy cái rễ cây. Họ gầy đi, xanh xao và chẳng còn sức lực; nhưng họ vẫn tìm được cách kéo dài cuộc sống, và thậm chí còn giữ được niềm vui trong những khủng hoảng mà nhiều người khác hẳn khó tránh khỏi cái chết. Mỗi năm, hai phần ba dân chúng ở trong tình trạng đó, và khi nạn đói kém lớn hơn thương lệ thì là cả dân tộc phải chịu đựng.
Sự cô lập của người Bana, ở giữa các khu rừng và núi của họ giải thích vì sao họ ít tiến bộ đến thế về nghệ thuật và ngành nghề: tất cả những gì họ biết làm, ấy là do nhu cầu và sự bó buộc dạy cho họ. Họ làm ra một cái nồi tạm dùng được để nấu cơm và vài món rau rừng; họ rèn chiếc rìu nhỏ, chiếc xà-gạc và chiếc cuốc là toàn bộ đồ lề làm nông của họ; cây gươm dùng để hạ sát thú rừng, và tấn công kẻ thù (... trong thế kỷ trước) và tự vệ, cũng như một con dao cán dài để làm trăm nghìn thứ vật dụng nho nhỏ mà họ rất giỏi. Cây ná của họ thật đẹp, bắn tên trúng đích và rất mạnh, cũng do tay họ làm ra; chiếc ống điếu dài, trang trí những đường rãnh xoi và những hình thù nho nhỏ, là sản phẩm lao động khéo tay nhất của tộc người.
Phụ nữ dệt một tấm vải, màu trắng hay xanh đậm, dùng làm tấm chăn, dù thô nhưng vẫn là món hàng trao đổi chính giữa người Bana và người Xơđăng. Các làng ven bờ sông Bla làm những con thuyền nhẹ, chắc chắn và xinh xắn, khoét trong một thân cây độc mộc.
Việc buôn bán của người Bana chỉ gồm có việc trao đổi vài vật dụng tối cần thiết và giá chẳng bao nhiêu. Họ quá sợ hậu quả nợ nần và mất tự do để dám đeo đuổi cơ hội rủi may của việc mở rộng buôn bán. Vài tấm chăn và một ít sáp ong hàng năm đến làm tổ trên các cây trong rừng của họ, họ đem trao đổi lấy sắt, muối, chén bát, ché, nồi đồng, và đôi khi những chiếc chiêng là món thèm muốn nhất của người Bana nhưng đắt đến nỗi họ chẳng mấy khi mua được món hàng ưa thích này.
Gia súc, gạo, ngô và hàng ngàn món đồ thủ công cũng nằm trong vòng trao đổi hàng ngày hạn chế cuả họ.
Người Bana ở thành làng từ hai mươi đến một trăm nóc nhà. Ở giữa làng là nhà rông, dễ nhận ra vì cái mái cao và đôi khi được đan rất nghệ thuật.
Nội thất của căn nhà sàn có bao nhiêu hộ thì được chia thành bấy nhiêu ngăn; người ta giành một ngăn lớn hơn các ngăn khác để đón khách. Vài chiếc ché dùng để đựng rượu là tất cả trang trí.
Ở giữa mỗi ngăn là một cái bếp để nấu nướng, buổi tối từng gia đình nằm ngủ quanh bếp lửa, trên những chiếc chiếu lát. Người chồng, người vợ và lũ trẻ mới được ưu tiên nằm ngủ quanh bếp; những người con gái đến một độ tuổi nhất định có một góc riêng. Những người trai trẻ, từ mười ba, mười bốn tuổi trở lên cho đến khi lấy vợ, chỉ ngủ ở nhà rông.
Giữa những người trong cùng một làng, nói chung có một tinh thần cộng đồng rất rõ nét. Như một nhà không bao giờ uống rượu của mình mà không mời các gia đình khác. Nếu một ai đó mổ thịt một con lợn, một con dê hay một con trâu, người ta chia thịt thành từng phần đủ cho từng người dân trong làng và phần của người chủ không nhiều hơn phần của những người khác. Không ai bị quên trong cuộc chia phần thân ái đó và, từ đứa trẻ còn bú vú mẹ cho đến người già đáng kính nhất đều có phần bằng nhau. Con nai, con lợn rừng, con mang bắt được trong các cuộc săn cũng theo luật chia này; chỉ riêng những người thợ săn được chiếm phần hơi nhiều hơn bù cho sự mệt nhọc của họ. Người ta từng thấy một con gà mái nhỏ nhoi được chia thành bốn mươi hay năm mươi phần! Những đứa trẻ, được rèn luyện từ lâu theo tinh thần của cha anh, đã noi theo gương họ từ tuổi bé thơ. Trong các cuộc săn đuổi của chúng, khi bắt được một con rắn, một con thằn lằn hay một con chuột, ta sẽ thấy, lúc trở về, đứa lớn nhất trong bọn cắt nhỏ con vật ra thành nhiều miếng, không bao giờ vi phạm luật công bằng chặt chẽ nhất.
Những cách thức ấy, khiến ta nhớ đến lòng bác ái của những cộng đồng Cơ đốc giáo đầu tiên, càng làm tăng thêm các mối quan hệ huyết thống vốn đã liên kết hầu hết các gia đình trong một làng. Các tộc người láng giềng cũng tuân theo phong tục đó, nhưng không chặt chẽ bằng.

*

Kết ước liên minh ở người Rơngao - Kết nghĩa bạn bè là hình thức liên minh đơn giản và phổ biến nhất ở vùng người Rơngao. Gần như không bao giờ thấy một người Rơngao nào đó mà lại không có nhiều người bạn hay . Loại giao ước này được thiết lập chỉ bằng một tiếng ừ hay không; nó thậm chí là một trong những điều kiện cần thiết trong việc buôn bán trao đổi ở một xứ sở không hề biết đến quán xá, trạm khách cho những người đi đường, và ở nơi mà nơi mỗi làng, plei, là một thứ nước cộng hòa khép kín mà người lạ không được bước vào nếu không nói đúng mật hiệu. Tên người bạn sẽ là mật khẩu duy nhất để cánh cổng ngăn mở ra cho anh ta.
Ở vùng Bana, Rơngao, Giarai, nó được gọi là Krao pô ("tên là bạn"). Khi đã kết nghĩa bạn bè đơn giản, những người bạn không thể sử dụng bạo lực với nhau nếu không có duyên cớ là một sự xúc phạm cá nhân. Sự kết nghĩa này không chỉ gắn với người được gọi là  mà cả với vợ anh ta, chị ta cũng được gọi như vậy, với cha mẹ và các con của anh ta. Những sự ràng buộc không đi xa hơn nữa. Khi một cuộc hôn nhân liên kết hai làng với nhau, hai làng trở thành đồng minh; họ không được có hành động chiến tranh nào với nhau, nếu không thì những mối liên kết sẽ không thành. Tuy nhiên vẫn cho phép có chuyện phạt vạ giữa các gia đình không có quan hệ hôn nhân nói trên. Việc kết nghĩa bạn bè không có tác động gì đến cộng đồng còn lại; đấy là một hành vi thuần túy cá nhân.
Việc kết nghĩa krao pô đặc biệt cho phép người ta coi nhau như anh em; sau cuộc kết nghĩa đó, người ta trở thành một gia đình chung, được coi như người trong nhà, được hưởng phần cơm của mình và được nhận một chiếc chiếu để nghỉ. Ðó là phần lợi được những người du khách rất quý trọng.
Ðể kết nghĩa bạn bè, cần có những người làm mối, hay nói theo cách địa phương, "một con đường", giống hệt như trong chuyện cưới xin. Về chi phí, thường chỉ là một con gà con và một ché rượu; nhưng bố mẹ và bạn bè thường góp thêm phần rượu của mình. Khi mọi chuẩn bị cho nghi lễ đã xong, những người làm mối đưa cần rượu cho từng người bạn, rồi ngồi yên trong khi hai người bạn đọc lời khấn sau đây:
"Txu! xin hãy nhận rượu và gà của cả hai chúng tôi để chúng tôi được gọi là pô. Xin các thần núi phù hộ chúng tôi! Xin các thần sông cho chúng tôi được khỏe mạnh! Xin cho chúng tôi được sống lâu! Cho chúng tôi được sống đến tuổi già, cho đến khi tóc chúng tôi đã bạc và rốn chúng tôi đã đóng vảy! Cho chúng tôi được đến thăm viếng nhau luôn để trao đổi hay cho nhau mượn các vật quý và hàng hóa! Cho chúng tôi vui mừng khi đi và khi về! Nếu bạn tôi ức hiếp tôi, giấu biệt của cải, chiêng ché, trao đổi lỗ vốn cho tôi, khiến tôi sạt nghiệp, tôi muốn anh ta sẽ phải chết, phải tàn rụi, biến mất cùng với tất cả các con và vợ anh ta! Xin các thần hãy về đây, hãy uống rượu và ăn gan gà này; chúng tôi sẽ xin uống sau."
Khi các thần đã no say, "con đường" đưa cho mỗi người bạn một miếng thịt gà, và mọi người cùng ăn và uống, mỗi người phải uống hết phần sừng hay can rượu của mình.
Khi hai người bạn chia tay, người đã chịu chi phí cho buổi tiệc tặng người  của mình một món quà. Món quà của anh ta ít nhất cũng là một chiếc rìu; thông thường người ta tặng một tấm choàng trắng, hoặc một chiếc khố thêu, giá bằng một chiếc ché; khi muốn tỏ ra cao thượng người ta tặng cả một chiếc nồi. Món quà này có tên là chum ("nụ hôn") và phải được trả lại với giá trị ít ra là tương đương như một món nợ thật sự.
Ðôi khi người ta làm việc kết nghĩa này nhằm một mục đích lợi ích vật chất nào đó: chẳng phải phiền lòng khi vay mượn của người hàng xóm: củi đuốc, măng tươi... Cũng có khi người ta làm việc này đơn giản chỉ vì có cảm tình thật sự với một ai đó. Nhưng thông thường nhất việc ấy mang một tính chất tôn giáo: người ta không thể mang tên là  một cách đùa cợt: ngay lúc ốm, người thầy cúng sẽ tìm được nguyên nhân và nhận ra được kẻ thủ phạm.
Duyên cớ thông thường nhất của việc kết nghĩa này là giấc mơ. Khi năm mơ thấy mình kết nghĩa với một người hàng xóm, ấy tức hai linh hồn đã kết nghĩa trước mặt thần linh; một lời hứa như vậy là thiêng liêng hơn mọi thứ, người ta phải giữ trung thành như với thần linh, vì trong trường hợp này thần linh đã được báo. Lời cầu khấn lúc làm lễ kết nghĩa trong những điều kiện đó kết thúc bằng câu:
"Xin hãy nhận lấy rượu và gà của chúng tôi! Xin đừng cho phép tin rằng chúng tôi chỉ còn phải chịu một nghĩa vụ nghi thức, chúng tôi đã kết nghĩa pô".
Các cuộc kết nghĩa anh em không thiêng liêng đến mức không phải lo chuyện phản bội. Khi nghi ngại có thể có sự phản bội, người ta đòi hỏi phải có "cắt máu ăn thề",xep.
Lúc muốn làm xep, phải có một ghè rượu nhỏ. Bao giờ người ta cũng giết một con gà, và thông thường cả một con heo, rồi người ta cho máu những con vật ấy chảy vào một chiếc bát nhỏ. Người chi cho buổi lễ cắt một vết nhỏ ở đầu ngón tay trỏ và cho nhỏ mấy giọt máu trộn với máu các con vật lại; rồi cho thêm ít rượu vào đó. Người ta lại cạo vào món rượu máu ấy một ít sừng nai, để rắc tượng trưng vào đấy các mầm bệnh. Rồi người ta lại cạo răng hổ, nanh lợn rừng, ngà voi để ủy thác người kết nghĩa của mình cho các con vật đó. Lại thêm vào đó vài thứ bùa ngải, rễ cây được giã nát, vỏ cây. Cuối cùng người ta nhúng vào thứ nước thiêng đó một chiếc vòng đồng đã nung đỏ, để cho hồn kẻ bội ước cũng sẽ nóng bỏng lên như món kim loại này.
Mọi việc chuẩn bị đó xong xuôi, người đòi hỏi phải ăn thề sẽ uống một phần thứ nước ấy; rồi người ta rót chỗ còn lại, một phần lên cằm để nó chảy xuống trên ngực anh ta, một phần lên đầu cho nó chảy xuống trên gáy và lưng anh ta. Trong khi làm việc đó, anh ta đọc lời khấn:
"Xin hãy chứng dám chúng tôi cắt máu ăn thề! Nếu tôi ăn nói nham hiểm, nếu tôi ăn nói xấu xa, nếu tôi nói lời đe dọa, nếu tôi thông đồng trong khi ăn với người lạ, thì tôi sẽ chết, tôi sẽ khô héo, tôi sẽ bị tiêu tan! Nếu anh ta ăn nói nham hiểm, nếu anh ta đe dọa tôi, anh ta cũng sẽ chết như vậy!"
Trong lễ ăn thề, những người bạn của người kết nghĩa cùng hùa những lời nguyền rủa với anh ta: một số người chơi điệu chiêng chiến thắng, tượng trưng cho sự đe dọa trả thù kẻ bội thề; một số người khác nói những lời than khóc người chết; những người khác nữa làm những cử chỉ kèm theo những lời nguyền rủa không thể tưởng tượng; tất cả đều nhằm tác động mạnh mẽ đến các thần chứng giám cuộc thề và các thần chủ trị các kiểu chết khác nhau. Như vậy nghi thức sẽ có hiệu lực hơn.
Rồi đến việc hiến tế ở ché rượu, cũng chứa đủ thứ biểu tượng của các kiểu chết: chất cạo ra ở sừng nai, răng hổ, ngà voi, nanh lợn rừng, đất lấy ở mộ, rể cây độc. Người ta còn cắm vào đấy một thanh gươm và một mũi tên để tượng trưng cho cái chết dữ; người ta đặt thêm vào đấy một cây sậy dùng làm nhà tranh để tượng trưng cho ngôi nhà mồ. Cuối cùng, lại thêm một thanh củi cháy rực. Lời khấn nhắc lại và phóng đại những nguyền rủa trong lời thề:
"Txu! Xin hãy chứng giám chúng tôi thề với nhau. Xin hãy các thần hãy uống và ăn đi đã, và phù hộ cho chúng tôi được sống lâu, mạnh khỏe và hạnh phúc. Cho chúng mãi trung thành với nhau cho đến đời con đời cháu. Cho chúng tôi đi thăm viếng nhau, trao đổi và cho nhau mượn các thứ hàng hóa của chúng tôi. Nếu bạn tôi ăn nói nham hiểm,... hãy khiến anh ta phải chết, phải khô héo, phải bị tiêu diệt; phải bị trúng tên, phải bị gươm đâm! Phải bị cây đè! Phải bị nứa xuyên! Phải bị hổ vồ! Phải bị voi dày! Phải bị heo rừng xé! Phải bị ma bắt! Phải bị lửa đốt cháy nhà và rẫy! Phải bị dao và xà-gạc của anh ta làm cho bị thương! Phải bị lở loét khắp người! Phải bị bệnh phong nuốt chửng, cả vợ và con nữa!"
Trong lúc hiến tế, những người tham dự lại càng hát to những bài hát chiến đấu, gào to những lời khóc than, những lời nguyền rủa, và múa máy những cử chỉ đe dọa. Ðất lấy ở mồ và những mẩu dây leo sầu não được tung ra bốn phía.
Sau buổi tiệc, khi người bạn xin ra về, người ta lấy một chiếc đùi gà và đập vỡ vào đầu gối anh ta vừa nó:
"Txu! Hãy nhận cho ta đập vỡ cái đùi gà này. Nếu anh ăn nói nham hiểm thì chân anh cũng sẽ gãy như thế này."
Rồi người ta đưa chiếc bát đã dùng trong lễ ăn thề cho anh ta để làm kỷ niệm, thêm một chiếc chiếu vừa nói:
"Nếu anh ăn nói nham hiểm, nếu anh ăn nói đe nẹt, hãy cầm lấy chiếc bát và chiếc chiếu này để mà chôn anh, cầm lấy chiếc cuốc này mà đào mồ!"
Người ta tiễn người bạn kết nghĩa mới một đoạn đường, vừa đánh điệu chiêng chiến đấu và nói với anh ta mọi nỗi tai nguy nếu anh phản bội.
Lễ xep lớn được tiến hành khi hai làng thù địch muốn ký kết hòa bình lâu dài sau nhiều năm chiến tranh. Chiếc bát thề được giành cho những người thủ lĩnh; nhưng thay vì cho họ uống ngay trong chiếc bát như trong lễ thề thông thường, người ta đổ một phần bát vào cái bồ đài bằng lá chuối, và người đưa cái bồ đài giải thích nghi thức ấy như sau:
"Nếu anh ăn nói nham hiểm, anh sẽ chết như chiếc lá khô này!"
Trong dịp này điệu múa chiến đấu long trọng hơn. Việc đập vỡ chiếc đùi gà, ngày hôm đó được thay thế bằng việc đập gãy một chiếc chày giã gạo cũ mà người ta vác trên vai và bị chặt ở giữa bằng một con xà-gạc, vừa nói:
"Hãy chứng giám chúng tôi chặt đôi chiếc chày giã gạo cũ này. Nếu chúng tôi ăn nói nham hiểm, thì nhà chúng tôi, của cải của chúng tôi tan nát hết, giống như tôi chặt chiếc chày này làm đôi! Chỉ khi nào chiếc chày này xanh tươi trở lại, trổ lá trở lại, thì chúng tôi mới lại đánh nhau."
Hội thề máu ràng buộc một mối liên minh tuyệt đối, kéo theo nghĩa vụ phải báo cho phía liên minh biết khi kẻ thù ngầm chuẩn bị một âm mưu chống lại họ; nghĩa vụ dứt khoát không cho kẻ thù đi ngang qua lãnh thổ của mình; nghĩa vụ phải cứu viện bên liên minh khi họ lâm vào tình thế khó khăn.
Ðối tượng kết nghĩa còn có thể là: các thần linh thuộc hàng cao hơn, các thần của các cây to và các thần của các loài thú đáng sợ hơn cả và được tín ngưỡng dân gian cho là biểu tượng của những đức tính cao hơn chúng ta.
Việc kết nghĩa với Bô Brok, thần sấm, được coi là một ân huệ đặc biệt. Khi người ta được báo mộng gặp gỡ vị thần ấy, thì ngay ngày hôm sau phải làm lễ hiến tế một con dê, trong khi chờ đợi có thể kiếm được con vật mà thần đã đòi dâng hiến. Thông thường đó là một con trâu hay một con bò đen: cả hai đều đặc biệt thân thiết với thần. Lời khấn lần này như sau:
"Xin mời thần hãy đến đây! Xin hãy nhận vật hiến tế là một ghè rượu và một con dê, nhân dịp kết nghĩa từ cha đến con mà tôi đã giao ước trong giấc mơ đêm nay với Bô Brok. Xin thần sấm, thần sét hãy đến uống và ăn! Hãy khiến cho cuộc kết nghĩa được hiệu nghiệm! Xin hãy che chở và giữ gìn cho tôi! Xin hãy cho tôi của cải và giầu có! Xin hãy cho tôi chiêng và chũm chọe, của cải và đồ quý, vải vóc và áo khố! Xin cho tôi đổi hàng với người ngoài được nhiều lãi to! Xin cho tiếng nói của tôi cất lên, lời nói của tôi nổi bật, âm vang như tiếng sấm, và oai vệ như tiếng hổ gầm! Xin cho những người nước ngoài và những người du khách đều phải đến tìm tôi, ai nấy cũng chỉ tôn vinh có tôi! Xin cho rẫy và vườn của tôi đầy thóc! Xin mời ông sấm, ông sét, xin mời các thần, hãy trước tiên đến uống rượu này và ăn gan dê này. Tôi chỉ xin uống sau các thần!"
Kẻ may mắn được là đối tượng của một sự ưu đãi rất đặc biệt đó, do lời thề trung thành của mình, hơn mọi người khác phải giữ đúng những kiêng cữ do yang sấm quy định. Những điều cầm kỵ đó liên quan đến tất cả những gì được coi là trái với trật tự tự nhiên của các sự vật do tạo hóa sắp đặt, mà Bô Brok là người canh giữ.
Không phải là tàn dư của một tổ chức tô-tem cổ xưa, việc kết nghĩa với một số loài thú và loài cây, như ta thấy ở vùng Rơngao, có vẻ còn nguyên thủy hơn. Người "Mọi" kết ước với một số người nào đó ràng buộc những nghĩa vụ lẫn nhau, nhằm mở rộng các mối quan hệ và các liên minh của họ và do đó khiến cho mình mạnh hơn; họ không thấy tại sao họ lại không thể làm đúng như thế với các thần linh, thần nước, thần núi, thần rừng, thần các loài thú.
Ghi chú về người Giarai - Người Giarai là một tộc người quan trọng trải dài trên hai trăm cấy số, giữa người Rơngao và người Êđê. Phương ngữ của họ rất gần với hai tộc người này. Kỹ thuật của họ, và ngay cả loại hình thể chất của họ, cũng cao hơn các tộc người khác. Họ đặc biệt có năng khiếu về nghề dệt: phụ nữ dệt những tấm vải trắng xinh xắn có trang trí những dải xanh và đỏ. Ðấy là món hàng trao đổi chính của họ. Ðàn ông làm nghề rèn và tạo cho sắt một dáng vẻ thanh tao hơn vừa được tôi tốt hơn của các tộc người Tây Nguyên khác; họ có năng khiếu trang trí và làm ra những thanh gươm có cán bằng đồng nổi khá độc đáo.

*

Người Êđê năm 1900 và người Êđê ngày nay - Người Êđê đã cư trú ở Ðaklak từ nhiều thế kỷ, nhưng chúng ta chỉ mới biết đến họ gần đây. Năm 1893, bác sĩ Yersin là người da trằng đầu tiên tiếp xúc với tộc người đông dân, mạnh và giàu truyền thống còn được gìn giữ chống lại mọi ảnh hưởng tàn hại này.
Yersin, đến từ phía Bắc, đã mô tả xứ sở này nhu sau: "Ta đi lên cao dần khoảng năm mươi mét bên trên cao nguyên, và bỗng nhiên ta thấy mình đang đứng trên đỉnh một ngọn đèo và ta phóng tầm nhìn bao quát toàn bộ thung lũng Ðaklak. Cảnh tượng thật ấn tượng: toàn bộ thung lũng là một cánh đồng ruộng mênh mông bắt đầu từ chân đèo và chỉ dừng lại bên bờ nước. Ðây đó những chòm cây chỉ rõ đó là những làng. Ta nhận ra những đàn gia súc lớn đang tắm trong hồ. Thung lũng được bao bọc bằng những ngọn đồi cao dần lên về phía Nam, đến Liang Biang. Chính hồ nước tắm chân những ngọn đồi khép lại vùng thung lũng Nam-Tây-Nam. Chúng tôi đổ xuống thung lũng, và chẳng mấy chốc chúng tôi đã đi trên các bờ ruộng. Chúng tôi đi ngang qua một ngôi làng mà không dừng lại. Khi chúng tôi đến gần, tiếng trống trận vang lên, nhưng chúng tôi đã đi xa. Ðứng trưa, chúng tôi đến làng Tiour (Ban-Tour-Kuop), nằm cạnh hồ. Tôi đi vào một căn lều trống. Hơn hai trăm con người liền ùa đến khoa tay múa chân. Những người "Mọi" của tôi vùng chạy ra la toáng lên là người ta muốn cướp và giết họ. Một lát người chủ làng đến, tôi giải thích cho ông ta là tôi đến không phải để đánh nhau, mà là để thăm viếng xứ sở, và chẳng mấy chốc chúng tôi đã là những người bạn tốt nhất trên đời này".
Tiếp sau đó là một mô tả có phần đơn giản về loại hình người Êđê: "Những người "Mọi" ở Ðaklak là những người hoang dã đẹp nhất (sic) tôi từng được thấy. Ðàn ông cao lớn và cường tráng; đàn bà không bằng, họ nhanh chóng trở thành quá béo. Họ lắm mồm một cách khác thường; chắc chắn là họ làm ồn hơn các ông chồng nhiều. Hẳn người ta nghĩ ra nhiều điều ngộ lắm về tôi, vì mọi người đều la hét, ríu rít, cười phá lên. Hình như những người này chưa bao giờ nhìn thấy người Việt..." (điều khẳng định này không đúng vì người Êđê cũng như những người Tây Nguyên khác vẫn xuống vùng người Việt mua muối mà họ rất cần.)
Năm 1900, Lavallée, tùy viên của trường Viễn Ðông bác cổ tiến hành một chuyến khảo sát các tộc người Tây Nguyên: ông nói về người Êđê như sau: "Loại hình cơ thể họ thuộc dạng kém; đường nét không cân đối, da rất sẫm, tóc thường lăn tăn. Nhà cửa bẩn thỉu và không được chăm sóc, giống như ở người Giarai. Công nghệ của họ khá phát triển, chủ yếu có việc dệt vải bông màu sắc đa dạng hài hòa. Họ cũng chế tạo dáo, dao bầu và ná. Họ trồng lúa, ngô, bông, chuối, đu đủ, khoai. Họ trao đổi với người Việt sáp ong, da thú, sừng nai và song mây lấy chiêng và nồi đồng. Những người Êđê ở trong nội địa có đôi con voi mà họ dùng để chuyên chở hàng hóa xuống vùng Trung kỳ, từ đó chủ yếu họ lại mang về muối mà họ rất chuộng..."
Và tác giả kết luận đó là "một chủng tộc man dã, không tiến bộ, không ích lợi gì trong công cuộc khai hóa, chỉ tổ gây cản trở..." và mong rằng "tộc người man dã này sẽ đồng hóa với các tộc người láng giềng." Ông ta đã nhầm: đấy là điều tối thiểu ta có thể nói... Người Tây Nguyên tỏ ra có thể hoàn thiện: thực tế đã chứng tỏ sự thích ứng của họ trong việc hấp thu mọi tri thức, phát triển các kỹ thuật của họ.
Những người Êđê năm 1900 khốn khổ; họ quá man dã, lạc hậu đến mức đáng lên án bằng một cái vung bút như vậy chăng? Họ biết trông đợi ở đâu một niềm tin yêu để phát triển những giá trị truyền thống của họ?

*

Những ngẫu hợp các hoàn cảnh đưa những nhà thám hiểm đầu tiên, rồi những nhà cai trị đến xứ sở Êđê, đã đem đến cho tộc người này một sự phát triển đáng kinh ngạc, nhưng nhịp độ quá nhanh đã làm hỏng đôi phần các kết quả trù tính.
Ngay từ đầu thế kỷ, Maître đã đem đến hi vọng về các tiềm năng của cư dân Ðaklak, xứ sở vừa mới tách ra khỏi đất Lào mấy năm trước đó, vào năm 1904. Sau cuộc khảo sát của nhà thám hiểm này trên cao nguyên, từ Daklak đến Bù Ðốp, con đường 14 ra đời. Nghị định năm 1904 ban cho Ðaklak một tình trạng đặc biệt, gắn tỉnh này với Triều đình An Nam; rồi một nghị định sau đó đặt nó dưới quyền Khâm sứ Trung Kỳ. Từ đây nó thuộc quyền cai trị trực tiếp, được thực hiện từ năm 1913. Năm 1923, tỉnh Ðaklak được thành lập. Một công việc to lớn đã được thực hiện phục vụ sự phát triển của người Êđê: bộ Bi-Duê, sưu tập các luật tục, đã được Antomarchi dịch và nêu gương cho những việc làm tương tự ở các tộc người khác; cũng như việc lập trường Êđê ở Buôn Ma Thuột, ngôi trường đầu tiên - sau trường Kontum - phổ biến một học vấn tiểu học cho người Tây Nguyên. Những người đại diện của nước Pháp nói như sau: "Vai trò trước tiên của chúng ta là cứu lấy các chủng tộc này, nâng cao tình trạng bên trong của họ... Các chủng tộc "mọi" là có khả năng hoàn thiện; chúng ta không được xua đuổi họ, cũng không được phó mặc họ; bằng lòng ân cần và sự quả quyết của chúng ta, phải đạt được đến chỗ đem lại cho họ một sự tấn tới về hoàn cảnh vật chất và tinh thần..." (Pasquier, 1923). Sự ân cần đó nhằm chủ yếu vào người Êđê ở Ðaklak vốn "có một quá khứ lớn, còn giữ được nền tảng của một cơ cấu xã hội, tuân theo một truyền thống truyền khẩu ngày nay được pháp điển hóa,... phải đảm bảo một cách có hiệu quả các tiếp xúc của những người bên ngoài (từ đó có việc lập những lãnh địa đóng kín, như vùng Krong Nô),... đã chứng tỏ trong chính họ có những nhân tố cần thiết cho sự phát triển đời sống kinh tế và chính trị của họ."
Người Êđê là những người đầu tiên có những người giáo viên tại chỗ; họ là những người đầu tiên có phẩm hàm trong đội quân sơn chiến; những người đầu tiên có bằng y tá. Sự tiến bộ của họ so với các tộc người khác khiến người ta cần đến họ ở những nơi khác, làm giáo viên, lục sự... Và tình trạng đó, không được các tộc người láng giềng ưa thích, thấy mình thành người được đỡ đầu, khiến cho anh chàng trai trẻ Êđê "tân tiến" rất đỗi kiêu hãnh, đôi khi cả đối với những người đã đào tạo và đưa họ lên. Sau nhiều thế kỷ ngưng trệ, sự bột phát bùng nổ của người Êđê quá nhanh đối với họ, và lại làm chậm sự phát triển của các tộc người khác, trái với dự tính của những người đi tiên phong.
Chẳng hạn, hai mươi lăm năm sau cuộc "phóng" của người Êđê, những người Tây Nguyên ở Ðồng Nai Thượng vẫn chưa có bộ luật tục được pháp điển hóa cũng chưa có phương ngữ của mình được phiên âm, và người ta buộc phải cử những cán bộ chỉ huy từ Ðaklak đến đây. Có phải những tộc người khác không có "một quá khứ lớn", không thể "tìm thấy ở họ những nhân tố cần thiết"? Ðương nhiên có những tộc người dễ thích ứng hơn những tộc người khác; quả là mọi đầu óc không phải đều rộng mở như nhau. Nhưng kinh nghiệm cho thấy chỉ cần đến với một tập đoàn người nào đó với tình thương yêu chân thật để nhận được ở họ sự nỗ lực và ý chí vươn lên.
Những người Êđê hôm nay, Êđê, Enin, Koyong, Krieng, Mdhur, và tất cả gia đình Êđê đi ra từ "lỗ" Bang Adren, mà các bạn ra sức canh giữ, các bạn "từ ngàn xưa" đã giàu có một quá khứ vĩ đại, một hình thức văn minh cổ; sự vĩ đại của các bạn không phải ở chỗ phải đổi thay, mà là tiến lên trong khi vẫn luôn là chính mình. Sự phát triển nền văn minh của các bạn cũng giống như sự phát triển luật tục của các bạn: nay nó đã được viết ra nhưng điều đó không hề khiến nó thay đổi. "Ðấy là tục lệ từ ngàn xưa - như các người già của các bạn vẫn hát - từ tổ tiên; cái ấy không thể mới được làm ra gần đây, từ ngày hôm nay, đấy là tục lệ ngày xưa".
Klei aduôn möng knôë klei aê mng hdap ..........klei bhêan möng dü


(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét