_Giuse
Phạm Công Liêm, O.P._
Đáp ứng
lời kêu gọi của Đức Giêsu: “Các con hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ”
(Mt 28,19), con cái của Giáo hội suốt 2000 năm qua đã rong ruổi khắp nơi, đến
tận các hang cùng ngõ hẻm để thực thi chúc thư của Thầy mình. Mỗi người khi ra
đi đều ôm ấp một ước vọng mong sao cho nước Chúa ngày càng rộng mở, được muôn
người nhận biết. Vì lý do đó, có bao người đã thành công mỹ mãn, gặt hái được
những kết qủa đáng kể. Nhưng, dù thành công hay thất bại, mỗi người khi đã bước
chân đi, đều phải trả một giá rất đắt, không chỉ bằng nước mắt và mồ hôi mà còn
cả bằng máu xương nữa.
Những thừa sai đầu tiên trên cánh đồng truyền giáo Việt nam từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII sẽ cho chúng ta một cái nhìn đúng đắn hơn về sứ vụ truyền giáo của Giáo hội. Đồng thời, qua các vị chắc chắn chúng ta cũng sẽ học được những kinh nghiệm bổ ích giúp bản thân thực thi sứ vụ trong tương lai.
Có thể
nói được rằng tình hình chính trị, tôn giáo và nếp sống của dân bản địa có ảnh
hưởng trực tiếp đến các thừa sai không những về mặt tinh thần mà còn cả về hiệu
quả của công việc nữa. Thế nên, chúng ta hãy tìm hiểu sơ qua những điểm này,
một mặt như để cảm thông với các vị trong những thất bại nếu có do những ảnh
hưởng của ngoại giới, mặt khác cũng thấy rõ được tinh thần hăng say truyền giáo
bất chấp những khó khăn cản trở của các vị.
Cha Đắc
Lộ trong tập sách “Những cuộc hành trình và truyền giáo” xuất bản ở Paris năm
1653 đã ghi: “Cách đây độ 50 năm nước Cochinchina mới tách biệt khỏi xứ
Tunquin. Trước đây, trong suốt 700 năm, cả hai là một lãnh thổ. Người mở đầu
cuộc cách mạng đưa đến đấu tranh chia rẽ chính là ông tổ của nhà vua đang giữ
chính quyền bấy giờ. Ông được vua nước Tunquin, anh rể của ông sai vào đất này,
sau đó ông cho danh hiệu nhà vua đẹp hơn danh hiệu quan trấn và chức vị nhà vua
cũng giá trị hơn chức vị của kẻ bầy tôi. Ông đã khởi loạn chống lại nhà vua của
ông và tự xưng là chúa nước này. Từ đó ông dùng binh lực để bảo vệ ngôi báu, và
truyền ngôi lại cho con cháu. Người xứ Tunquin đã nhiều lần đem quân vào đánh,
nhưng đều không thu được thắng lợi nào cả….”.[1]
Thật vậy,
nước Việt nam từ năm 1542 đến 1592 bị chia đôi: nam triều của vua Lê tính từ
Thanh hoá trở vào, với Tây kinh ở thọ xuân. Còn Bắc triều của nhà Mạc tính từ
Sơn Nam trở ra, với Đông kinh là Thăng Long. Tình hình chính trị từ năm 1542
trở đi ngày càng phức tạp rối ren hơn trước. Biến cố người Bồ đến Việt nam buôn
bán từ khoảng 1540 có thể nói đã làm cho tình hình chính trị nước nhà vốn phức
tạp lại còn phức tạp hơn. Để củng cố lực lượng tiêu diệt lẫn nhau vua Lê, chúa
Trịnh cũng như nhà Mạc đã tìm đến người Bồ để trao đổi hàng hoá và khí giới.
Nhân cơ hội ấy, các thừa sai người Bồ trên những chiếc tàu buôn, đã đặt chân
lên đất Việt giảng đạo. Sự hiện diện của họ trên các chuyến tàu buôn thời kỳ
này đôi khi còn được nể trọng, vì nó giúp các vua chúa tin chắc rằng người Bồ
sẽ còn trở lại buôn bán, và khi cần thiết, các vua chúa có thể dùng họ để trao
đổi và điều đình việc giao thương.
Nhưng,
không phải lúc nào họ cũng được nể trọng và tự do truyền bá đạo lý. Những cản
trở xảy đến vì lý do chính trị đã đành, song phần lớn cũng do nhịp độ giao
thương giữa vua chúa và các thương gia người Bồ.
Nếu như
tình tình chính trị đôi khi có ảnh hưởng xấu đến việc truyền giáo, thiết tưởng
đó chẳng phải là mối bận tâm chính yếu của các thừa sai. Việc truyền giáo cho
vùng đất được mệnh danh là chiếc nôi của những tôn giáo lớn, trong đó đầy những
mê tín dị đoan, ấy mới là những băn khoăn đáng sợ.
Cha
Tissanier, một thừa sai trong giai đoạn đó nhận xét: “Cũng như ở Trung hoa, ba
giáo phái chính ở Việt nam lúc đó là Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo. Tư tưởng
của ba giáo phái ấy đều hoàn toàn trái ngược với luật Phúc âm”.[2]
Nhưng,
theo cha Đắc Lộ thì người công giáo không bỏ rơi cũng như không phủ nhận hoàn
toàn những giá trị có trong các tôn giáo ấy. Ngoài những thiếu sót và sai lầm,
ba tôn giáo ấy đã góp phần rất lớn trong việc bảo vệ con người khỏi rơi vào
tình trạng vô thần, trong khi chờ đợi tin lành đích thực đến với họ.
Còn các
thừa sai thì chân nhận rằng, xã hội người Việt có một tổ chức rất cao. Người
dân Việt có những đức tính, phong tục rất đáng khâm phục, đó là nhờ Nho giáo.
Như vậy
có thể nói cản trở chính các thừa sai gặp phải nơi Nho giáo không phải là vấn
đề tư tưởng, nhưng là ở một số tín đồ của phái Nho giáo. Họ là những quan chức,
những Nho gia có đầu óc câu nệ và hẹp hòi, luôn cho rằng ngoài Nho giáo và Phật
giáo ra, những tôn giáo khác đều là đạo tà.
Còn Phật giáo và Lão giáo, sau thế kỷ 15, đã bước vào tình trạng suy vi, trở thành tôn giáo của lớp dân thường. “Các tăng ni là những người chuyên bày ra các mối dị đoan, các lễ nghi phiền phức để cho bọn hạ lưu (nhất là đàn bà) đua theo”.[3] Làng nào, xã nào, người ta cũng đều thấy đầy dẫy các chùa chiền, với tầng tầng lớp lớp ông sư bà vãi sống nhờ vào sự mê tín của nhân dân. Họ chẳng khác nào những thầy pháp, thầy cúng, thầy bói của Lão giáo. Nói như cha Đắc Lộ, đó là một giáo phái tai hại hơn cả. Họ đã để lại trong lòng người dân đầy những mê tín dị đoan. Suốt cuộc truyền giáo, các cha đã phải bỏ bao nhiêu công sức mới mong gột rửa hết những mê tín đó nơi giáo dân.
3. Về người Việt
Theo cha
Buzomi: “người Việt có những đức tính dung hoà giữa người Tàu và người Nhật.Họ
không qúa nghiêng về văn chương. Tính tình cũng không thâm hiểm như người Tàu.
Họ không quá nghiêng về quân bị. Tính tình cũng không độc ác như người Nhật…
Tuy dễ nghe, dễ tin và nhiều mê tín, nhưng người dân Việt dễ nhận ra lẽ phải.
Họ không kiêu căng hay tự tôn như người Tàu, vì thế trong khi trình bày đạo lý,
các cha có thể đưa về với lẽ phải, với chính đạo. Với lòng sùng đạo sẵn có, một
khi trở lại, những người công giáo Việt nam lại là những người nhiệt thành đạo
đức hơn ai hết”.[4]
Như vậy,
theo những thừa sai thì nước Việt nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII ở trong
một bối cảnh chính trị hết sức phức tạp. Đất nước bị chia đôi. Các vua chúa
luôn tìm cách tranh dành địa vị thôn tính lẫn nhau, cuộc nội chiến có thể xảy
ra bất cứ lúc nào. Vấn đề các tôn giáo theo nhận xét của các thừa sai cũng là
điều đáng lo, vì họ "đầy dẫy những mê tín dị đoan". Nên, để Tin mừng
của Chúa có thể thâm nhập, bén rễ sâu và lan rộng trên toàn lãnh thổ này qủa
không phải là dễ. Cần một phương pháp rao giảng thích hợp đã đành, nhưng mặt
khác cũng cần phải có những con người đầy nhiệt huyết, xông pha không quản ngại
hy sinh gian khổ, mới có thể làm cho mảnh đất này trở thành mảnh đất Kitô giáo
được. Các thừa sai đến Việt nam trong giai đoạn này đã hoàn trọn tốt sứ mạng
đó. Chính vì vậy mà tinh thần và dấu ấn của các vị vẫn còn in đậm trong lòng
Giáo hội Việt nam suốt 400 năm nay.
II. Tinh thần và phương pháp truyền giáo của các thừa sai ở Việt nam thế kỷ XVI, XVII, XVIII
1. Tinh thần
a. Chọn lựa dấn thân
Nhìn đồng
lúa chín vàng, những thợ gặt hân hoan vung liềm lên hái, bất chấp nắng mưa khó
nhọc, chỉ mong ước một mùa bội thu. Hình ảnh đó giúp ta liên tưởng đến những
thừa sai trong giai đoạn đầu của Giáo hội, đặc biệt là Giáo hội Việt nam. Họ là
những ai ? Đời sống của họ thế nào ? công việc của họ ra sao ?...Người đời nay
biết được họ chính là nhờ sách vở, nhờ cha ông kể lại. Song bấy nhiêu thì có
thấm vào đâu với những con người suốt một đời hy sinh quên mình vì lý tưởng và
vì tình thương yêu đồng loại. Tinh thần và cách sống của họ qua những ghi nhận
dưới đây, đáng cho chúng ta bắt chước học đòi.
Sử sách
thuật lại rằng, những thừa sai hải ngoại trước khi lên đường thi hành sứ vụ, đã
được tiễn biệt bằng nghi thức rất cảm động. Những bậc vị vọng nhất trong buổi
tiễn biệt đã quỳ xuống trước mặt họ và hôn chân họ. Nghi thức ấy long trọng
tuyên bố với họ rằng: từ đây họ trở thành kẻ xa lạ với quê hương. Họ sẽ vĩnh
viễn miên trường hát ca khúc “Đẹp thay bước chân người rao giảng Tin mừng” (Is
52,7).5 Do
đó ta chẳng lạ gì khi thấy họ đã sống hết mình và hết tình nơi những vùng đất
mới. Vùng đất mới ấy cũng chính là quê hương mới của họ. Những con người mới
kia cũng chính là anh em của họ. Quê hương ấy có thể chẳng giống chốn cũ: chẳng
giàu sang, tiện nghi và êm ấm bằng. Người anh em của họ có thể cũng chẳng được
như những người đồng hương với họ: chẳng văn minh, lịch thiệp bằng... Nhưng họ
đã chọn lựa và quyết sống hết mình với chọn lựa đó, cho dù có bị hiểu lầm,
chống đối, lợi dụng hoặc bị đối xử tàn nhẫn... Vì Đức Kitô, và vì phần rỗi của
anh em đồng loại, họ chấp nhận tất cả.
b. Chấp
nhận gian khổ
“Lúa chín
đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Giáo hội Việt nam thời sơ khai rất ít linh mục,
đến nỗi, cứ một hay hai người, phải lo lắng cho cả một giáo đoàn đông đúc.
Người dân Việt vốn tính siêng năng xưng tội và sốt sắng tham dự thánh lễ, nên
các thừa sai lại càng bận rộn hơn, việc này nối tiếp việc khác. Ban ngày các vị
phải dạy 5 đến 6 lớp giáo lý, ban đêm thì lo giải tội và dâng thánh lễ. Khi
cuộc bách hại đạo xảy đến, công việc lại càng cực nhọc hơn, ngày các vị lo trốn
tránh, còn đêm thì thường phải thức trắng để thi hành công tác mục vụ. Cuộc
sống vất vả cực nhọc đã đành, lại còn bị vua quan bách bớ và hành hạ, những lúc
như thế các vị chỉ còn cách thốt lên như thánh Phaolô: “Nếu chúng tôi không tin
tưởng ở Đức Kitô, thì hẳn đời này không ai khốn khổ bằng chúng tôi”.[6]
Ngoài
công việc vất vả dạy dỗ coi sóc đoàn chiên lúc thuận cũng như lúc nghịch, các
vị còn phải lo chống trọi với bao khó khăn khác như thời tiết, khí hậu, đói
khát...Cha Juan de Santa Cruz viết: “Cha bề trên địa phận Francois Deydier ở
Phố Hiến thấy chúng tôi nhiệt thành với sứ mạng, nên đã trao cho chúng tôi 40
làng thuộc tỉnh Đông và tỉnh Nam, để chúng tôi hoạt động... Khu vực của chúng tôi
đất đai rộng, nhưng ít bổn đạo và rất nghèo, đến độ không có làng nào đủ sức
làm được cho chúng tôi một căn nhà, nên chúng tôi phải ở dưới thuyền đã mấy năm
trời. Chúng tôi phải tốn phí nhiều tiền để sắm thuyền lớn mới có thể dâng Thánh
lễ và làm các phép Bí tích như rửa tội, giải tội. Nhờ có nhiều sông ngòi,
thuyền chúng tôi có thể đi khắp miền truyền giáo của chúng tôi trong 8 ngày.
Sống và hoạt động như thế rất nguy hiểm, vì mưa bão xứ này lớn và mạnh lắm, lại
còn liều mình lọt vào tay trộm cướp thường uy hiếp những thuyền đậu hai bên bờ
ban đêm...”.[7]
Đó là lúc
công việc truyền giáo gặp thuận lợi. Nhưng khi cơn bách hại đạo xảy đến, cuộc
sống của các cha còn lận đận long đong gấp mấy. Ngày và đêm, các vị phải ẩn núp
dưới những chiếc thuyền nhỏ nóng bức, chui lủi dưới đám lau sậy, nơi bùn lầy
nước đọng. Các vị còn tâm sự: “Hoàn cảnh bắt buộc chúng tôi phải ẩn trong
thuyền, chỉ ban đêm mới dám thò đầu ra ngoài để hít thở khí trời. Và dù chúng
tôi sống luôn trên sông, tôi chỉ có dịp tắm mới có ba lần thôi, cho nên tôi ghẻ
lở khổ sở lắm... Đã 30 năm chúng tôi ở trong xứ này, không tháng nào mà không
phải ẩn mình để khỏi bị bắt...”[8]
Bên cạnh
những thế lực vua quan ra sức đàn áp, các vị còn bị các ông sư bà vãi quấy phá
phiền nhiễu nữa. Khi thấy dân chúng bỏ mình để theo các thừa sai, làm cho niêu
cơm của mình bị đe doạ, vì số lợi nhuận thu vào ngày càng ít, họ đã tìm cách
làm gián đoạn công việc của các vị. Khởi đầu họ đến gặp gỡ tranh luận, nhưng
khi cuộc tranh luận không được thoả đáng, họ đã tìm cách vu oan, giáng hoạ và
phá hoại các nơi thờ phượng như nhà thờ, nhà nguyện, bàn thờ... Bên cạnh đó, họ
còn tạo ra nhiều tin đồn thất thiệt khác. Chuỗi kinh Mân côi các vị tặng cho
giáo dân, họ cho rằng đó là một thứ bùa mê, ai đeo vào khi chết sẽ hoá kiếp làm
tôi đòi, làm súc vật... Họ còn dựng nên cảnh địa ngục nơi đó có người đàn bà
đang đau khổ quằn quại, chỉ vì bà này trước khi chết đã để cho các thừa sai đổ
“một thứ nước tác oai tác quái lên đầu”. Họ đồn đại trong dân rằng, những thừa
sai chính là các thầy pháp, đã được vua Bồ sai đến, để bắt hồn các người theo
đạo. Họ còn bịa ra nhiều chuyện khác, hầu làm cho dân chúng xa lánh đạo, và làm
cho người có đạo đâm ra nản lòng thối chí.
Cuộc sống
các vị tưởng chừng như lúc nào cũng sôi động và căng thẳng, khi gặp cơn bách
hại thì phải trốn tránh sự lùng bắt của quan quân, khi tình hình lắng dịu thì
lại phải đối phó với những kẻ ganh tị quấy phá, thiết tưởng chẳng còn nỗi khổ
nào hơn. Nguyên việc trốn lánh sự lùng bắt của quan quân thôi cũng đủ làm cho
các thừa sai phải kiệt lực và chết sớm, chứ chưa cần kể đến bao nỗi khó khăn
khác. Tinh thần và sự hy sinh cao cả của các vị thật khó có thể diễn tả hết
bằng lời, càng tìm hiểu chúng ta càng thấy cảm phục các vị hơn.
Thế
nhưng, điều chúng ta muốn học hỏi nơi các vị không chỉ là về lãnh vực tinh
thần, nhưng còn về cả những phương pháp và cách tổ chức công việc nữa.
2. Phương pháp truyền giảng và hoạt động
a. Những trắc trở ban đầu
Có thể
nói rằng, công việc truyền giáo của các thừa sai thế kỷ XVI không gặt hái được
nhiều thành công lý do chính là thiếu phương pháp hội nhập và thích ứng. Khi
đặt chân lên vùng đất này, vừa lạ lẫm, vừa không hiểu ngôn ngữ địa phương, và
có lẽ cũng không được học hỏi kỹ lưỡng về phong tục, tập quán của vùng đất này,
nên các vị đã không thích ứng kịp. Bên cạnh đó, yếu tố thời gian cũng có ảnh
hưởng không ít . Vì với một khoảng thời gian ngắn ngủi các vị không thể lập nên
những chương trình dài hạn và làm được những công việc lớn lao. Chính vì không
thể hội nhập và thích ứng kịp thời, nên khi phải đụng chạm với một vùng đất đa
nguyên tôn giáo, các vị gây ra những hiểu lầm đáng tiếc, Cụ thể nhất là chyện
đụng chạm đến đạo thờ ông bà tổ tiên của người Việt. Với người Việt, thờ kính
ông bà tổ tiên là hiếu đễ, là đạo của kẻ làm con, chữ “đạo” ở đây không thể
hiểu như chữ “đạo” trong Kitô giáo. Chính vì không hiểu và phân biệt được điều
đó, nên các vị ra sức cấm đoán và cho rằng làm như vậy là lỗi luật Chúa và trái
đạo trời. Đã theo đạo thì chỉ được thờ một Chúa mà thôi... Lúc ấy, người dân Việt
không thể hiểu được có một đạo nào tự xưng là đạo thật mà lại đi cấm đoán việc
thờ ông bà tổ tiên, vốn là truyền thống đạo giáo của cả một dân tộc suốt hằng
bao thế kỷ. Cho nên, người dân đã phản ứng lại với những gì mà các thừa sai rao
giảng, và hai bên đã có sự xích mích với nhau. Nguyên do đó đã khiến cho đạo
Kitô giáo không phát triển được nơi mảnh đất vốn được coi là hiền hoà này.
Không chỉ
có thể, các vị còn vấp phải một điều đáng tiếc nữa, đó là sự hiểu lầm về Phật
giáo. Do qúa nhiệt tình bênh vực và truyền bá đạo lý, các vị đã lập lại chính
sai lầm của một số nhà nho đã nói ở trên, chỉ coi đạo mình là đạo thật, còn
những tôn giáo khác biệt đều là tà đạo. Trong cuốn Phép giảng tám ngày, các vị
đã coi Phật giáo là đạo thờ ngẫu tượng: “Nó dạy dân thờ bụt, và lấy mình, Thích
ca, làm cội rễ các bụt, như thể mình là kẻ làm nên trời đất…”[9]. Điều đó làm
cho các Phật tử đâm ra tức tối và phản ứng lại một cách gay gắt. Anh hưởng này
sẽ còn kéo dài đến mãi thế kỷ XVIII, gây ra không ít những khó khăn cho những
người đến sau.
Ngoài ra,
có một số vị khác còn muốn đem cả nền văn minh tiến bộ của tây phương, và những
hiểu biết của mình về đạo áp đặt nên các phong tục tập quán của người bản địa
một cách vội vàng và thiếu cân nhắc... nên việc truyền giáo đã không đạt được
những kết qủa mong muốn. Đến nỗi, Giáo hội đã phải lên tiếng khuyên nhủ: “Đừng
hăng say, đừng đưa ra một luận điểm nào để thuyết phục các dân tộc này thay đổi
các nghi thức, phong tục và tập quán của họ miễn là chúng không hiển nhiên đi
ngược lại tôn giáo và luân lý. Có gì phi lý bằng việc bê nước Pháp, nước Ý,
nước Tây Ban Nha hay một nước Châu Au nào đó sang bên Trung hoa? Hãy du nhập
vào Trung hoa lòng tin chứ không phải là các nước này. Lòng tin không loại bỏ
hay xúc phạm các nghi thức hay tập tục của bất kỳ một dân tộc nào, miễn là
chúng không đáng chê trách, ngược lại, lòng tin muốn chúng ta duy trì và bảo vệ
các nghi thức và tập tục này”.[10] Đây là một kinh nghiệm qúy giá dành cho các
nhà truyền giáo sau này.
b. Chọn lựa phương pháp
Rút kinh
nghiệm từ các bậc tiền bối, những thừa sai sau này, khi đến Việt nam đã chọn
lựa một phương pháp dứt khoát là thích nghi với văn hoá điạ phương. Họ đã đến,
sống và hoà mình vào nếp sống của người dân Việt, học hỏi thêm về văn hoá,
phong tục và tập quán của xã hội Việt, đồng thời tìm hiểu thêm về tính tình của
người dân, do vậy mà cách thức và lời giảng dạy họ thích ứng và phù hợp với
trình độ của người dân, và người dân cũng dễ dàng chấp nhận hơn. Tác phẩm
“Histoire du Royaume de Tunquin” đã cho thấy các vị hiểu rất rõ xã hội và con
người Việt nam. Tác phẩm đã có những nhận xét rất đúng đắn về phong tục tập
quán của cha ông ta, từ việc ma chay, cưới hỏi cho đến các tục lệ ngày tết, từ
việc thờ kính ông bà tổ tiên cho đến việc thờ vua chúa...
Trong giao
tiếp cũng như dạy dỗ, các vị đã sử dụng ngôn ngữ bản địa rất nhuần nhuyễn,
chính vì thế mà không xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc. Về của ăn, áo mặc cũng
thế, các vị hầu như đã trở thành một người Việt thực thụ. Thức ăn hằng ngày của
các vị là cơm, cá khô, chuối,... những ngày lễ trọng thì có thêm chút cá tươi,
chút thịt. Còn về áo mặc, các vị chẳng khác người dân Việt chút nào, đến nỗi có
lần quân lính khám xét thuyền các vị đang ở mà họ cũng không nhận ra.[11]
c. Đem đạo vào đời, đem đời trở về với đạo
Cũng với
việc sử dụng phương pháp hội nhập và thích nghi, đa số các thừa sai trong giai
đoạn thế kỷ XVII trở đi, đã đạt được nhiều thành công trong quá trình giảng dạy
đạo lý. Cha Alexandre de Rhodes viết: “Mặc dầu có nhiều người rao giảng giáo lý
Phúc âm cho những nước lương dân, chủ trương trước hết phải hủy diệt sai lầm tà
giáo và làm cho tâm trí từ bỏ những quan niệm mơ hồ, trước khi xây dựng và
giảng dạy những điểm và những nguyên lý của Kitô giáo,... còn về mầu nhiệm cao
cả về Thiên Chúa Ba Ngôi thì chỉ trình bày cho người tân tòng vào lúc họ đã sẵn
sàng chịu phép rửa tội, trước là để không làm rối trí họ vì những hoài nghi có
thể nảy sinh về mầu nhiệm cực kỳ cao cả và khôn lường đó... Thế nhưng theo kinh
nghiệm, giữa hai cách trên đây, tôi chọn một phương pháp giáo huấn cho các dân
nước này. Nghĩa là không chống đối những sai lầm các giáo phái trước khi đặt
một số các nguyên lý mà chỉ ánh sáng tự nhiên cũng hiểu biết được, như về việc
sáng tạo vũ trụ, về cứu cánh và nguyên lý vạn vật đã được dựng nên và về an bài
những loài có lý trí và nhiệm vụ phải nhận biết Người và phụng thờ Người. Như
vậy để đặt vào tâm trí họ một nền tảng chắc chắn trên đó đều dựa vào mọi niềm
tin khác để không làm cho họ chán nản khi nghe người ta đả phá và khinh dể
những thờ tự của mình mặc dù là giả dối và những tập tục mê tín...”.[12] Cũng
thế, khi nói về Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất, các vị đã dùng hình ảnh
“Tam phụ” rất quen thuộc trong Nho giáo như sau: “Bây giờ ta phải hay có ba
đấng bề trên, gọi là ba cha, ta phải thờ, ở đấng nào, cho nên đấng ấy. Đấng
dưới là cha mẹ sinh thân xác cho ta; đấng giữa là vua chúa trị nước; đấng trên
là Đức Chúa trời đất, làm Chúa trên hết mọi sự. Có ba đấng này ta mới được
sống, được ở…”.[13]
Ngoài ra,
cũng chính nhờ hiểu biết sâu xa về nếp sống văn hoá và sinh hoạt của dân chúng,
mà các vị đã đánh đổi được những mê tín dị đoan vốn in đậm trong lòng dân bao
đời để thay vào đó nhhững hình thức đạo đức bình dân. Như thay vì đeo bùa,
ngải, các vị đã cổ võ họ đeo ảnh tượng. Thay vì khua chiêng, đánh trống, đốt
vía, dựng cây nêu có ý xua đuổi ám khí, tà ma, các vị đã khuyên họ nên dùng
nước thánh, nến phép và thánh giá... Hơn nữa, hầu đáp ứng lòng đạo đức sốt sắng
của dân chúng, các vị đã soạn ra nhiều kinh bổn, phổ biến kinh Mân côi, viếng đàng
thánh giá, ngắm 15 sự thương khó... chính những sáng kiến và những phương pháp
giảng dạy dễ hiểu mà càng ngày các vị càng lôi kéo được nhiều người tin đạo và
theo đạo hơn.
d. Chú trọng đến giới trí thức và quan lại. Dùng người Việt truyền
giáo cho người Việt
Đây là
một trong những vấn đề khó khăn và phức tạp. Vì như chúng ta đã biết, giới trí
thức và quan lại trong xã hội phong kiến Việt nam thế kỷ XVI, XVII, XVIII đa số
là những nhà nho yêu nước, có chân trong triều đình. Họ lại rất tự hào về
truyền thống đạo giáo của mình. Nên, muốn họ tin đạo thì cũng đồng nghĩa với
việc bắt họ phải thay đổi não trạng và cái nhìn, đồng thời phải hủy bỏ những tệ
tục đã bén rễ sâu trong đời sống lâu nay, như tục đa thê chẳng hạn. Điều đó
thực không phải dễ. Để làm được điều này, các thừa sai phải thật am hiểu về đời
sống và phong tục tập quán của họ thì mới có thể điều chỉnh cái nhìn của họ
sang một hướng tích cực hơn. Cha Đắc Lộ kể: “trong lần thuyết giáo hôm trước
tôi trình bày cho họ về nguồn gốc linh hồn, là do chính Thiên Chúa tạo dựng,
cha mẹ chúng ta không có tham dự vào đó chút nào. Hôm đó tôi tiếp tục trình bày
về ông bà nguyên tổ và tội phạm của ông bà truyền lại cho con cháu muôn đời về
sau vết nhơ mình đã sa ngã. Khi tôi vừa trình bày xong thì một người tân tòng
trí khôn thông minh sắc sảo, đã dự buổi hôm trước đứng lên hỏi tôi: làm thế nào
hoà hợp điều mà đạo trưởng vừa thuyết giáo lần này với điều mà đạo trưởng mới
nói lần trước? ... nếu Adam không sinh ra linh hồn thì làm sao lại truyền tội
cho linh hồn được?”.[14] Theo cha thì đây là một trong những vấn đề hóc búa, mà
nếu như không có sự hiểu biết sâu xa về đạo và văn hóa điạ phương, các thừa sai
sẽ không thể nào đưa ra những ví dụ cụ thể để trả lời thoả đáng được.
Quả thực,
truyền giáo cho giới trí thức và quan lại là vấn đề khó nhưng không phải không
thực hiện được. Các thừa sai đã chọn lựa công việc này là vì như chúng ta đã
biết, trong xã hội Việt nam lúc bấy giờ, giới trí thức quan lại là những người
nắm giữ sinh mệnh của người dân, và việc truyền giáo được tiến triển hay không
phần lớn đều tuỳ thuộc ở họ, nên, chú trọng đến vấn đề này là một chọn lựa đúng
đắn. Nếu họ không theo đạo vì còn bị ràng buộc bởi vấn đề chính trị hay địa vị,
thì ít ra họ cũng có cảm tình với đạo, và như vậy việc truyền giáo sẽ thuận lợi
hơn. Thực tế cho thấy, có nhiều vị chức trách và quan lại trong triều, khi trở
lại đạo đã làm việc tông đồ rất hăng say, nắm những chức vụ trùm trưởng trong
các họ đạo...Phần những thừa sai, các vị luôn tìm cách cổ võ, thúc đẩy hướng
dẫn họ trong đức tin và công việc, đồng thời giao trách nhiệm cũng như công
việc đúng theo khả năng của họ, và nhất là , biết sử dụng những những người
Việt để truyền giáo cho người Việt.
e.Tổ chức hội thày giảng
Với con
số giáo dân ngày càng tăng, lại rất siêng năng tham dự thánh lễ và lãnh các bí
tích, các thừa sai thấy mình như không đủ sức đảm đương hết mọi công việc, vì
thế, các vị đã nghĩ đến việc lập hội các thầy giảng. Trước mắt, các thầy này sẽ
giúp hoặc sẽ thay thế các vị trong những công tác không đòi hỏi đến chức vị
linh mục. Đây là một trong những kinh nghiệm các vị học được nơi các thánh Tông
đồ, nhất là thánh Phaolô. Thánh Phaolô, trong hành trình truyền giáo cho dân
ngoại, đến bất cứ nơi đâu ngài cũng chọn một trong số những người bản xứ có
lòng nhiệt thành và sốt sắng giữ đạo để cộng tác với ngài trong công cuộc rao
giảng. Các thừa sai trong giai đoạn này cũng muốn cho giáo đoàn mình coi sóc có
những người lãnh đạo thuộc tầng lớp giáo dân, để công việc truyền giáo được
phát triển mau chóng, vững mạnh và có thể sống tự lập khi thiếu vắng các vị. Vì
dù thế nào đi chăng nữa, những người dân bản xứ cũng là những người biết rõ hơn
ai hết những phong tục, tập quán cái hay cái dở của khu vực làng xã mình, và
như thế, họ sẽ biết cách trình bày đạo lý phù hợp với trình độ và nếp sống của
người dân hơn.
Nhưng
khác với các tông đồ, những thừa sai thế kỷ XVI, XVII, thực sự đã không có đủ
thẩm quyền để huấn luyện người này kẻ nọ lên chức thánh. Nên vấn đề không thể
giải quyết một cách tức thời, mà cần phải có sự can thiệp của phía Rôma, nhất
là thánh bộ truyền giáo lúc bấy giờ. Chính cha Đắc Lộ sau này đã sang Rôma để
yêu cầu toà thánh ban chức giám mục cho Giáo hội Việt nam.
Đang khi
chờ đợi sự can thiệp từ phía Rôma, thì ở Việt nam trong giai đoạn này, hình thức
các cộng đoàn cơ bản truyền giáo đã được hình thành. Cộng đoàn cơ bản này bao
gồm những giáo dân mới trở lại đạo nhưng rất nhiệt thành, có uy thế trong dân
như bà Maria Minh Đức, quan Phaolô Bình, anh I-nha-xu, các ông nghè, ông tổng,
các sư sãi...họ rất hăng say sống đạo và đã thuyết phục được nhiều người theo
đạo. đây chính là giải pháp thích hợp nhất trong giai đoạn Giáo hội điạ phương
thiếu vắng những mục tử.
Từ những
cộng đoàn cơ bản này, các vị đã chọn ra một số những người nhiệt thành, không
vướng bận việc gia đình đi theo và giúp đỡ mình trong việc mục vụ. Những người
này sẽ được huấn luyện đầy đủ hơn về giáo lý thánh kinh để họ có thể dẫn dắt
người khác, nhất là những dự tòng, tân tòng...
Cha Đắc
Lộ kể, ngay từ giai đoạn đầu thành lập, Thiên Chúa đã lo liệu cho cha có được
10 người đi theo cộng tác trong việc giảng dạy. Ngài viết: “Đặc ân Chúa ban cho
tôi trong thời kỳ này là thúc đẩy 10 người trai cộng tác với tôi trong việc
truyền giáo cho dân xứ họ. họ là những người ở những miền khác nhau, nhưng cùng
chung một lý tưởng hiến dâng tất cả cho Chúa và Giáo hội...Chúng tôi cùng nhau
đi thăm các họ đạo, các làng, các huyện và Thiên Chúa đã chúc phúc cho hoạt
động của chúng tôi được nhiều kết quả”.[15]
Và kể từ
đây tổ chức Hội thày giảng đã ra đời. Tinh thần và lòng nhiệt thành truyền giáo
của họ đã được cả thế giới biết đến. Vì là người điạ phương, nên trong những
lúc đạo bị cấm cách, họ cũng dễ dàng di chuyển hơn các thừa sai, lại rất quen
thuộc địa hình và người địa phương... Họ luôn là những cộng sự viên đắc lực của
các thừa sai. Nơi nào cần là có họ. Công việc của họ tuy âm thầm và khiêm tốn
nhưng không thể thiếu. Họ có thể đến từng gia đình, thăm hỏi, an ủi và giúp đỡ
mọi người, mặt khác cũng có thể giúp các cha trông coi các họ đạo thậm chí cũng
có thể mở mang các họ đạo mới...
Qua những
thành quả và công việc của họ, các thừa sai đã khẳng định rằng, họ chính là
những cột trụ của Giáo hội Việt nam trong tương lại. Và quả thật là như vậy,
những linh mục đầu tiên của Việt nam đã phát xuất từ chính chiếc nôi này.
Có thể
nói công cuộc truyền giáo ở Việt nam trong vòng ba thế kỷ đầu đã gặt hái được
những thành quả rất đáng mừng. Công lao đó của các vị thừa sai chúng ta không
bao giờ quên. Là những người kế tục các vị trong sứ vụ truyền giáo hôm nay,
trên mảnh đất của các vị năm xưa, một lần nữa chúng ta tự hỏi chính mình do đâu
mà các vị đã thành công như thế? Thiết tưởng câu trả lời đã được trình bày
trong những phần trên. Nhưng, cũng cần thiết khẳng định lần nữa rằng, lý do
chính khiến việc truyền giáo thành công là nhờ tinh thần và phương pháp làm
việc của các vị thừa sai.
Về tinh
thần, hầu hết các vị đều có một tinh thần hy sinh cao độ, không nghĩ đến lợi
ích bản thân. Những tác động bên ngoài như cái đói, cái rách, cái lạnh, cái
cùng khổ, bắt bớ không làm các vị chùn bước. Các vị chỉ có một mong ước duy
nhất là làm sao cho mọi người được nghe Tin mừng, được biết Đức Kitô. Lý tưởng
ấy, các vị đã chọn lựa và sống chết vì đó. Đây chính là bài học cho những ai
muốn theo chân Đức Kitô trong sứ vụ truyền giáo.
Còn về
phương pháp truyền giáo hội nhập và thích ứng với hoàn cảnh, thiết tưởng rằng
nguồn gốc của nó đã có ngay trong Kinh thánh nhất là trong Tân ước. Trong suốt
hành trình rao giảng của mình Đức Giêsu đã lập đi lập lại những phương pháp
này, rồi tiếp đến là thánh Phaolô... Phần chúng ta, nếu biết áp dụng vào đúng
nơi, đúng lúc, đúng đối tượng, chắc chắn sẽ thành công. Song chúng ta cũng phải
chân nhận rằng, ngoài những lấn cấn ban đầu do chưa hiểu rõ các phong tục và
tôn giáo nên đã để xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc, còn thì các thừa sai từ thế
kỷ XVII trở đi, đã biết hội nhập một cách khéo léo vào phong tục tập quán điạ
phương. Đặc biệt, với một tinh thần nhiệt thành và sáng suốt, các vị đã đưa
được những sáng kiến phù hợp với tinh thần đạo đức của người dân địa phương
như: dâng hoa, dâng hạt, ngắm 15 sự thương khó Đức Giêsu, viếng đàng thánh
giá... Và sở dĩ việc truyền giáo của các vị trên đất Việt vẫn ngày ngày đơm
bông kết trái, chính là nhờ việc các vị đã đào tạo được những người địa phương
kế tục mình trong sứ mạng rao giảng. Đây cũng là điểm chúng ta cần quan tâm
trong sứ mạng sau này.
Ngoài
những điều đáng biểu dương và học hỏi ở trên, chúng ta cũng cần kể ra một kinh
nghiệm đau thương mà các thừa sai đã vấp phải, đó là cuộc tranh chấp giữa các
tu sĩ Dòng Tên và các vị thừa sai Pháp, và cuộc xung đột về quyền bính giữa các
tu sĩ dòng Đaminh và dòng Autinh. Hậu quả của những cuộc tranh chấp đó đã dẫn
đến những chia rẽ thật đáng tiếc không chỉ trong nội bộ các dòng, mà còn ảnh
hưởng xấu đến cả giáo dân. Qua những tài liệu sách vở, người ta còn biết những
phe đối lập đã làm bất cứ chuyện gì kể cả triệt hạ và tố giác nhau, miễn sao
phần thắng thuộc về mình.16 Đây
quả là một kinh nghiệm đáng buồn, đáng cho chúng ta suy nghĩ.
Song
không chỉ vì những thiếu sót và vấn đề tiêu cực xảy ra trên đây mà chúng ta phủ
nhận hết công lao của các vị. Giáo hội nói chung và Giáo hội Việt nam nói riêng
vẫn đang cần đến những chứng nhân nhiệt thành trong công tác truyền giáo. Vì
theo thống kê gần đây chúng ta được biết: dân số thế giới hiện nay đã lên tới
6,3 tỉ người, trong đó chỉ có 1,995 tỉ tín hữu. Nếu đem so sánh con số những
người tin theo Đức Kitô với dân số hoàn cầu, thì tín đồ Kitô giáo thuộc các hệ
phái khác nhau chỉ chiếm 30%. Và nếu chỉ tính riêng công giáo mà thôi thì tỉ lệ
đó chỉ còn là 15%. Còn với lục điạ Á châu, dân số hiện nay là 3,3 tỉ, trong đó
công giáo chỉ vỏn vẹn 132 triệu tín hữu, tức 3,95%.17 Song
như chúng ta đã biết, niềm tin tôn giáo và chiều sâu tâm linh nơi con người
không thể đo lường bằng con số, thế nhưng, bản thông kê trên đây đáng cho chúng
ta suy nghĩ và ý thức hơn về trách vụ truyền giáo của mình, luôn luôn phải học hỏi
để tìm ra những phương pháp tốt nhất để giúp cho việc truyền giáo đạt hiệu quả
hết sức có thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lm. Bùi
Đức Sinh, Lịch sử Giáo hội công giáo, Nxb Chân lý, 1975
2. Lm. Đào
Trung Hiệu, Cuộc lữ hành đức tin, tập 2, Xb 1997
3. Lm.
Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo ở Việt nam, tập 1, Nxb Hiện tại
1959
4. Lm.
Nguyễn Thái Hợp, Đường vào thần học về tôn giáo, tập 1, Nxb Dấn
thân, 2000
5. Lm. Bùi
Đức Sinh, Dòng Đaminh trên đất Việt, 1993
6. UBĐK Công
giáo, Ns. Công giáo và dân tộc, số 71, tháng 11.2000
7. Trần An
Bài, Thiên hùng sử, 1990
8. Alexandre
de Rhodes, Lịch sử vương quốc Đàng ngoài, bản việt ngữ, 1994
9. Nguyễn
Nghị, Trong dòng sông sự sống, Nxb TPHCM, 1996
10. Nguyễn
Khắc Xuyên – Phạm Đình Khiêm, Giáo sĩ Đắc Lộ và tác phẩm quốc ngữ đầu
tiên, Phép giảng tám ngày, Nxb. Tinh-Việt Văn-Đoàn, 1961
GHI CHÚ____
1. Lịch
sử truyền giáo ở Việt Nam, tr. 52
2. Cuộc hành trình đến xứ Đông kinh, tr. 135
3. Văn học sử yếu, tr. 63-64
4. Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, tr. 57-58
5. Thiên hùng sử, tr. 5
6. 1Cr 15,19
7. Dòng Đaminh trên đất Việt, tr. 39
8. Nt, tr. 41
9. Phép giảng tám ngày, tr. 76
10. Trong dòng sông sự sống, tr. 5
11. Dòng Đaminh trên đất Việt, tr. 42
12. Lịch sử vương quốc đàng ngoài, tr. 113
13. Phép giảng tám ngày, tr. 5
14. Lịch sử truyền giáo ở Việt nam, tr. 169-170
15. Nt, tr. 161
16. Ns. Công giáo và dân tộc, tr. 77-78
17. Đường vào thần học các tôn giáo, tr. 87-88
(Nguồn: Thời sự Thần học – số 35, tháng 03/2004, tr. 127-145)
https://tsthdm.blogspot.com/2022/03/bai-hoc-rut-ra-duoc-qua-guong-cac-vi-truyen-giao.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét