Tôi chịu ơn sách vở thật nhiều, nhờ sách vở mà đời sống tôi thành ra súc tích, khác hơn cuộc đời cơm áo............Những cơn bão của đời là để chứng nghiệm sức mạnh của chiếc neo của ta............Hãy cẩn thận lưỡi, vì đó là một chỗ ướt dễ trượt............Tình bạn là một thứ tình cảm êm dịu, đủ sức tô bồi cho đời người được sung sướng và có đạo đức............Kỹ nghệ giải trí ngày nay chú trọng vào ô nhiễm của các dòng sông nhiều hơn là ô nhiễm chính nó đưa vào tư duy của con người............Nếu bạn muốn cảm thấy giàu có, hãy đếm tất cả những gì bạn có mà tiền bạc không mua được............

Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014

TIỂU SỬ ĐỨC GIÁM MỤC JEAN SION KHÂM (1890 - 1951) - VỊ SÁNG LẬP DÒNG ANH EM HÈN MỌN THÁNH GIUSE (PHẦN 1)




TIỂU SỬ
ĐỨC GIÁM MỤC JEAN SION KHÂM (1890 - 1951)
VỊ SÁNG LẬP
DÒNG ANH EM HÈN MỌN THÁNH GIUSE

(Phần 1)


DILEXI TE
(Con yêu mến Ngài Ger 31, 3)

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ
ĐỨC GIÁM MỤC JEAN LIÉVIN JOSEPH SION

Giám Mục Hiệu Toà Mideo
Giám Mục Đại diện Tông Toà Kontum: 22.4.1942 - 19.8.1951.
(2nd Vicaire Apostlique du Vicariat de Kontum).


- Sinh ngày 10 tháng 6 năm 1890 tại Estaires, Giáo phận Lille, Pháp. 
- Gia nhập MEP ( Société des Missions Étrangères de Paris - Hội Thừa Sai Ba Lê ) 
ngày 11 tháng 9 năm 1908. 
- Thụ phong linh mục ngày 26 tháng 3 năm 1920. 
- Đến Giáo phận Qui Nhơn ngày 04 tháng 8 năm 1920 
- Sáng lập Dòng ANH EM HÈN MỌN THÁNH GIUSE ngày 05 tháng 7 n ăm 1926. 
- Bề Trên Dòng Thánh Giuse từ ngày 05 tháng 7 năm 1926 đến ngày 22 tháng 4 năm 1942. 
- Cha Chính Giáo phận (Père Provicaire) kiêm Đại Diện Thừa Ủy (Vicaire Délégué) 
ngày 01 tháng 7 năm 1941). 
- Tấn phong Giám Mục ngày 22 tháng 4 năm 1942 do Đức Khâm Sứ Tòa Thánh, 
Tổng Giám Mục Antoine Drapier, OP, chủ phong, tại nhà thờ Qui Nhơn. 
- Châm ngôn: Regula (Lề Luật)
- Khẩu hiệu Giám Mục : " Dilexi te" (Con yêu mến Ngài (Ger 31, 3)
- Nhậm chức Giám Mục Đại diện Tông Tòa Kontum ngày 28 tháng 4 năm 1942. 
-- Sáng lập Dòng ẢNH PHÉP LẠ Giáo phận Kontum ngày 6 tháng 4 năm 1947. 
- Qua đời ngày 19 tháng 8 năm 1951 tại Montbeton, Pháp, Nhà Hưu Dưỡng Hội Thừa Sai Ba 
lê (MEP). 
- Hưởng thọ 61 tuổi.



NIỀM MƠ ƯỚC CỦA VỊ SÁNG LẬP

Giáo hội Chúa bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo ý định của Chúa Cha. Do đó Giáo hội lữ hành trần thế có sứ mệnh truyền giáo khắp mọi nơi và qua mọi thời đại.
Đầu thế kỷ XX, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Giáo hội đặc biệt chú tâm đến công tác truyền giáo. Cũng trong chiều hướng đó, Chúa Quan phòng đã khơi dậy nơi người trai trẻ Jean Sion lòng mến mộ và sự quyết tâm tận hiến đời mình cho việc vinh danh Nước Chúa.
Trong giờ nguyện gẫm của một buổi tĩnh tâm tháng 10 năm 1948, cha Jean Sion đã bộc lộ ý nguyện ấy: "Lạy Chúa, từ lúc 15 tuổi, trong nhiều năm dài, mỗi buổi mai khi dự thánh lễ con thường xin Chúa ơn này : trở thành linh mục thừa sai và tử đạo ở xứ Tonkin. Linh mục và Thừa sai thì con đã đạt đến. Còn tử đạo… . Đó là bí mật của sự quan phòng Chúa." 
Lý tưởng cao đẹp ấy Cha Jean Sion Khâm tha thiết ôm ấp và truyền lại cho con cái của ngài là những Anh Em Hèn Mọn Dòng Thánh Giuse mà ngài là Người Sáng Lập.


Phần Một

CUỘC ĐỜI CHA SÁNG LẬP

I - GIA THẾ VÀ THIẾU THỜI

Jean Liévin Joseph Sion sinh ngày 10 tháng 6 năm 1890 tại làng Estaires, quận Merville, miền Bắc nước Pháp. Về mặt giáo quyền Estaires thuộc Giáo phận Lille của Giáo tỉnh Cambrai.

Cậu Jean là người con thứ 7 trong một gia đình có 9 anh chị em (6 trai, 3 gái). Thân phụ là Cố 
Paul Émile Sion và thân mẫu là Cố Pauline Thérèse Tancré, thuộc gia đình đạo đức ở Estaires.

Khi lên 2 tuổi, cậu bé Jean theo học lớp mẫu giáo dưới sự hướng dẫn của các nữ tu tại quê nhà (Les Dames de la Sainte Union des Sacrés Coeurs). Năm lên 7 tuổi mồ côi cha. Cùng năm ấy, Jean bước vào Trường Trung Tiểu học của giáo xứ do cha Cateau, chính xứ kiêm hạt trưởng điều hành hạt Roubaix.
Từ khi vào tuổi học sinh, cậu Jean đã có dự định dấn thân vào đời sống linh mục khi đến tuổi trưởng thành. Cậu bày tỏ ý định này với cha giáo và với thân mẫu. Thân mẫu cậu không cản trở, cũng không thúc đẩy, bà tôn trọng ơn gọi tốt đẹp của con mình. Do ý định trở thành linh mục mà cậu Jean trung thành ôm ấp nên cậu chú tâm vào việc sửa mình, nhất là sửa tính nóng nảy tự nhiên của mình.
Nhờ vị linh hướng đạo đức là cha Cateau dìu dắt, năm cuối bậc Trung học cậu Jean tỏ ý cho mẹ biết ý định xin vào Hội Thừa Sai Ba-Lê. Bà đau lòng vì viễn ảnh của một sự chia ly không hẹn ngày hội ngộ hé ra, nhưng bà không ngăn cản. Cậu Jean được thâu nhận vào Đại Chủng viện ở Bièvres ngày 11 tháng 09 năm 1907.
Tháng 10 năm 1911, thầy Jean Sion nhập ngũ thi hành nghĩa vụ quân dịch, thuộc ngành trưng binh tại Saint Omer. Sau đó thầy xuất ngũ và được gởi sang Rôma học Thần học tại trường Đại học Grégorio.
Đệ nhất thế chiến (1914-1918) bùng nổ. Thầy Jean Sion bị động viên vào tháng 2 năm 1915. Ngày 25 tháng 2 năm 1916 thầy bị bắt làm tù binh trong trận Verdun. Vì là lính cứu thương, thầy Jean Sion được trả về quê hương trong đợt trao trả tù binh vào tháng 10 năm 1917. Tuy nhiên thầy còn phải phục vụ trong quân ngũ, ngành phóng xạ tuyến nhiếp ảnh (radiographie) cho đến ngày 18 tháng 7 năm 1919 mới được giải ngũ. Cùng năm ấy mẹ thầy qua đời vì bệnh sung huyết tại Pont- L'évêque (Normandie), nơi bà và gia đình đang tản cư.
Rời quân ngũ, với ý chí cương quyết theo ơn gọi đến cùng, thầy Jean Sion trở lại chủng viện Ba Lê tiếp tục học hành và dọn mình lãnh Chức Thánh. Ngày 28 tháng 02 năm 1920 thầy lãnh nhận chức Phó tế; và đến ngày 20 tháng 3 năm 1920 thầy thụ phong linh mục lúc 30 tuổi.

II - VỊ LINH MỤC TRUYỀN GIÁO NHIỆT THÀNH
Lý tưởng truyền giáo là niềm thao thức của Cha Jean Sion. Ước mơ từ thuở thiếu thời nay đã thành sự thật khi Bề Trên gởi ngài sang truyền giáo tại Việt Nam. Tháng 4 năm 1920, cha Jean Sion rời cảng Marseille (Pháp) trên chiếc tàu thủy Lebon. Sau bốn tháng lênh đênh giữa đại dương, ngày 4 tháng 8 năm 1920 cha đặt chân lên đất Qui Nhơn khởi đầu cho một sứ mệnh khó khăn.

1-     Chánh xứ Phú Thượng 

Khởi đầu cha Jean Sion học tiếng Việt tại Gò Dài, thuộc giáo xứ Gò Thị (Bình Định). Sau bốn tháng miệt mài học tập, cha chọn tên Việt là KHÂM. Tháng 1 năm 1921, cha Jean Sion được cử làm chính xứ Phú Thượng (Quảng Nam). Đó là một giáo xứ kỳ cựu miền núi, có một tu viện Mến Thánh Giá và 1500 giáo dân. Cha Jean Sion nổ lực phát triển công cuộc truyền giáo với phương thức: "tình thương đi trước, lời giảng theo sau" để đến với mọi người. Ngài lưu tâm học hỏi phong tục, tập quán để có thể hội nhập vào nền văn hóa địa phương.
Là người Pháp, nhưng vị thừa sai trẻ Jean Sion không thích quan hệ với chính quyền bảo hộ mà chọn đứng về phía người thấp cổ bé miệng. Cha chỉ đến với nhà cầm quyền khi nào cần bênh vực quyền lợi của người dân bị áp bức. Vì thế cha Jean Sion không được vị Công sứ Pháp ở Đà Nẵng thích, nhưng cha rất được lòng chính quyền Việt Nam. Đó cũng là một trong những lý do khiến cha phải rời Phú Thượng sau mười chín tháng quản nhiệm giáo xứ nảy.

2-     Nhà đào tạo nhiều uy tín 
a - Giáo sư Đại Chủng viện 

Tháng 9 năm 1922, cha Jean Sion được bổ nhiệm làm giáo sư Đại Chủng viện Đại An đào tạo những linh mục tương lai. Trong bốn năm liền cha phụ trách môn Kinh Thánh và Âm nhạc. Ngoài ra còn kiêm nhiệm việc linh hướng cho các nữ tu giúp việc Đại Chủng viện. Trong thời gian này cha đã để lại ấn tượng tốt cho các chủng sinh. Lối giảng dạy của cha linh hoạt tận tâm đầy sức thuyết phục. Các linh mục xuất thân từ những năm cha coi sóc đều được trọng dụng sau này. Các ngài còn nhắc mãi với lòng khâm phục lối giảng dạy và nhất là cuộc sống giản dị và thánh thiện của cha.

b - Bề Trên Hội Thầy Giảng 

Ngày 19 tháng 3 năm1925 cha Jean Sion được bổ nhiệm làm chíùnh xứ Nhà Đá kiêm Bề Trên Hội Thầy Giảng giáo phận Qui Nhơn. Từ đây cha trực tiếp đào tạo những người truyền giáo theo lý tưởng của mình. Cha hăng say làm việc, sống gần gũi những người thuộc quyền và đích thân giải quyết những khó khăn, nâng đỡ đời sống tinh thần của họ. Với những kinh nghiệm của nhiệm vụ Bề Trên Hội Thầy Giảng cùng với nhiệt tâm tông đồ ấp ủ từ lâu, cha Jean Sion nhận định rằng các Thầy Giảng không thể đáp ứng nhu cầu tông đồ ngày càng rộng lớn của giáo phận vì ơn gọi của các Thầy Giảng không được ràng buộc một cách bền bĩ. Trong những năm ở chức vụ này cha tích cực nghiên cứu việc lập một Dòng Tu có lời khấn hứa để có thể đẩy mạnh việc tông đồ truyền giáo một cách hữu hiệu hơn.

III - VỊ SÁNG LẬP DÒNG KHẢ KÍNH

Sau nhiều năm tháng cầu nguyện, nghiên cứu và trao đổi, tháng 6 năm 1926 cha Jean Sion đệ trình lên Đấng Bản Quyền - Đức Cha Damien Grangeon - thỉnh nguyện lập Dòng. Ngày 05 tháng 07 năm 1926 Đức Cha Grangeon triệu tập và chủ tọa một cuộc họp đặc biệt của Hội Đồng Tư Vấn giáo phận để cứu xét thỉnh nguyện. Cha Jean Sion thuyết trình về cơ cấu, mục đích, phương hướng và lối tổ chức Dòng mới. Hội Đồng Cố Vấn chấp thuận việc thành lập Dòng mới và lấy tên là: DÒNG ANH EM HÈN MỌN THÁNH GIUSE, viết tắt làAEHMTGSTiếng Pháp là: CONGRÉGATION des PETITS FRÈRES de SAINT JOSEPH. Cha Jean Sion được đề cử làm Bề Trên kiêm nhiệm cha Chính xứ Nhà Đá.


Việc chiêu sinh cho Hội Thầy Giảng được ngưng lại và Đức Cha giáo phận thông báo cho các cha xứ tuyển mộ đệ tử cho Tu Dòng mới. Thoạt đầu rất chật vật về tài chánh. Cha Sáng Lập cho khởi công dựng lên những dãy nhà tranh trong khuôn viên nhà thờ Nhà Đá. Lớp Đệ Tử đầu tiên khai giảng ngày 1 tháng 11 năm 1926 quy tụ được 17 em lứa tuổi từ 11 đến 13 từ các giáo xứ gởi đến. Cha Sáng Lập chọn ngày 1 tháng 11 năm 1926 làm ngày khai sanh Tu Dòng mới. Ngài đích thân lo hết mọi việc. Có hai thầy giảng giúp dạy văn hóa.

Khi vừa ỗn định việc tổ chức, Cha Sáng Lập nghĩ ngay đến thủ tục xin Tòa Thánh phê chuẩn Dòng mới. Kết quả ấy đạt được vào ngày 23 tháng 5 năm 1931, khi Tòa Thánh ký Giấy Chuẩn nhận. Sau đó vào ngày 14 tháng 7 năm 1931, Đức Cha Augustin Tardieu, Giám mục giáo phận Qui Nhơn, ký sắc lệnh chính thức thành lập. Dòng ANH EM HÈN MỌN THÁNH GIUSE (AEHMTGS) được khai sinh về phương diện pháp lý. 

Để việc đào tạo đạt kết quả vững chắc, Cha Sáng Lập tự nguyện làm người tu sĩ đầu tiên. Ngài được Đấng Bản Quyền cho phép dấn thân giữ Đức Khó Nghèo, sống giản dị khiêm nhu, hy sinh và từ bỏ …dưới sự hướng dẫn của Đức Tin. Nếp sống ấy ngài còn giữ mãi trong đời sống Giám mục. Sau này trong một buổi tĩnh tâm dọn mình chịu chức Giám mục, ngài dốc quyết sẽ "vẫn còn là tu sĩ trong khi làm Giám mục như nhiều vị thánh đã làm". Điều này được Đức Cha Marcel Piquet, bạn thân của ngài và là Cha Chính giáo phận Qui Nhơn thay thế ngài, đã xác minh trong bài diễn từ mừng vị Tân Giám mục Kontum như sau: "Bí quyết thành công của ngài (Đức Cha Jean Sion) là tự làm tu sĩ trước tiên để có thể đào tạo tu sĩ biết cầu nguyện, sống khổ chế, luôn luôn yêu mến Chúa (Dilexi te). Những đức tính này là nguyên liệu để xây dựng tòa nhà của Hội Dòng vậy."

Nói chung, ý định lâp Dòng được Cha Sáng Lập ôm ấp từ lâu, nay mới có điều kiện để thực hiện. Ngài quyết tâm đẩy mạnh công tác đến thành công. Sư huynh Gérard Lộc (sau này chịu chức Linh mục), người đã từng cộng tác lâu năm với ngài cho biết: "Những khi trò chuyện thân mật, ngài đã bộc lộ ý định ấy. Từ khi còn trẻ ngài đã từng vào các tu viện để quan sát, học hỏi nhất là các viện khổ tu mà ngài có mơ ước thầm kín được vào sinh hoạt ở đó." 

"Vạn sự khởi đầu nan." Muôn sự trên đời, khó nhất là lúc ban đầu. Trong việc thành lập Hội Dòng Cha Sáng Lập cũng đã nếm mùi gian khổ một cách rất chua chát. Vật chất thiếu thốn được cấp theo lối nhỏ giọt làm ngài phải ưu tư lo lắng quá nhiều. Sự hợp tác về tinh thần quá ít, trong khi đó có quá nhiều dư luận bi quan, nhiều lời công kích thiếu bác ái làm cho ngài quá khổ tâm. Nhiều bạn đồng nghiệp hoài nghi về sự vững bền của tổ chức mới, hoài nghi về sự đào tạo của Tu Hội. Mặc cho những lời phán đoán thiếu vô tư, Cha Sáng Lập vẫn trông cậy và phó thác cho sự quan phòng của Chúa. Hội Dòng ngày càng trưởng thành. Và sự thành công của việc trưởng thành vững mạnh ấy - được thể hiện trong ngày Cha ra đi nhận nhiệm vụ mới ở Kontum - là lời biện minh xác thật nhất cho chủ nghĩa hoài nghi và bi quan ấy.

IV - ĐOÀN SỦNG VÀ LINH ĐẠO DÒNG THÁNH GIUSE

Chúa Thánh Thần hiện diện trong giáo hội thúc đẩy mọi người Kitô hữu tham dự vào bản tính Thiên Chúa, nghĩa là được mời gọi nên thánh. Ơn gọi nên thánh của mỗi người phải được đáp lại bằng đời sống đức Tin với tâm tình Trông Cậy qua hành động Lòng Mến.
Tu sĩ là người theo Đức Kitô (Sequela Christi) để nên thánh bằng việc thực thi đức Ái trọn hảo (Perfectae Caritatis). Tu sĩ Anh Em Hèn Mọn Thánh Giuse được Chúa thánh hóa và được mời gọi tham dự vào đoàn sủng của cha Jean Sion để ngày ngày nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô. Nhờ đức Ái và bỡi đức Ái, anh em thực sự biểu dương Chúa Kitô cho các tín hữu, biểu dương Người đang loan báo Nước Trời cho dân chúng, biểu dương Người đang chúc phúc và dạy dỗ trẻ em hoặc biểu dương Người đang hăng hái lo việc Nhà Cha.
Nhờ hồng ân Chúa Thánh Thần cha Jean Sion đã cảm nghiệm sâu sắc về tình yêu Chúa. Với tâm tình Dilexi te cha đã gây dựng cho anh em một linh đạo phó thác trong tin yêu và một nhiệt tâm truyền giáo. Cuộc sống thánh hiến của anh em đặt nền tảng trên đức Tin, có cứu cánh là đức Ái, được thể hiện trong tâm tình đơn sơ Khiêm nhu. Tin, Mến, Khiêm nhu là những kim chỉ nam cho con đường của anh em Giuse. Nhờ đó mà anh em thực hành đức Bác Ái thiêng liêng hằng ngày để qui tụ nhiều linh hồn cho Chúa Cha.
Nhu cầu phát huy đoàn sủng của Cha Sáng Lập và duy trì tinh thần Hội Dòng cần phải có gương sáng và sự bầu cử của các vị thánh Bỗn mạng để kéo xuống nhiều ơn trợ giúp.
Thánh Giuse - người công chính - Vị Bỗn mạng đã sống đức Tin vững mạnh với đức Khiêm nhường sâu thẵm. Thánh nhân luôn luôn sẵn sàng lắng nghe và mau mắn thực thi ý Chúa. Theo gương của Người, Cha Sáng Lập đã phục vụ vì Tin. Ngài phó thác Hội Dòng trong sự phụ trợ của thánh Quan Thầy. Cuộc đời của thánh Giuse là một cuộc đời âm thầm. Ngài sống khiêm nhu làm nghề thợ mộc thấp kém trong xóm Nagiarét vô danh. Nhưng công nghiệp của thánh nhân dư tràn có thể đổ xuống cho đoàn con của Người để trợ lực họ trong những hoàn cảnh của cuộc sống hẩm hiu mà vì Nước Trời họ phải dần thân.
Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn mạch Tình Yêu từ đời đời đã yêu nhân loại, và đã yêu đến mức phó mạng sống làm giá cứu độ người mình yêu. Cha Sáng Lập đã qui chiếu đời mình nơi nguồn sống yêu thương ấy và còn muốn cho con cái mình múc lấy nơi Thánh Tâm tình yêu để phân phối lại cho thế gian trong công việc thự thi đức Bái Ái Kitô giáo.
Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội làm Mẹ Chúa Cứu Thế mà vẫn toàn khiết tịnh. Cha Sáng Lập đã phó dâng các con cái mình cho Mẹ để Người bảo vệ đức khiết tịnh của họ. Đức Maria còn là gương mẫu tuyệt vời cho anh em Giuse về đức Tin và đức Khiêm nhường mà ngày ngày anh em phải cầu xin và cương quyết noi theo.
Công tác truyền giáo của anh em được giáo phó cho thánh Cả Phaolô, Vị truyền giáo dân ngoại vì lòng Mến và với kiến thức cao vời đã qui tụ rất nhiều linh hồn về với Chúa Cha. Cha Sáng Lập, cũng vì lòng mến, đã chọn cuộc đời Thừa sai, ngài muốn cho con cái ngài cũng vì lòng mến dấn thấn mở rộng Nước Chúa, như ngài nói : "Ta càng mến Chúa thì càng làm cho nhiều người mến Chúa."
Linh đạo mà Cha Sáng Lập đã để lại cho Anh Em Hèn Mọn Thánh Giuse thật rõ ràng. Đó là một linh đạo truyền giáo đặt nền tảng đức Tin, đức Khiêm nhượng và được hướng dẫn bỡi tâm tình Dilexi te (Con yêu mến Ngài). Linh đạo ấy là phương thế tuyệt diệu để anh em hiện tại hóa Nước Thiên Chúa giữa những ngưới nghèo, mang đến cho họ tình thương của Chúa Cha dành cho họ, thể hiện ơn cứu độ của Chúa Con bỡi Chúa Thánh Thần. Linh đạo ấy là phương thế tuyệt diệu để anh em nên thánh và thành tựu hóa mơ ước cao vời của Cha Sáng Lập khi ngài còn là một tu sinh; mơ ước đó là :" Đất Việt Nam được thấm nhuần máu các thánh tử đạo, một ngày nào đó sẽ có kết quả là sản sinh nhiều vị Thánh Hiển Tu. Ước gì hoa trái đầu tiên sẽ là một vị thánh của Dòng ta vậy."

V - VỊ GIÁM MỤC NHIỆT THÀNH VÀ ĐAU KHỔ

1 - Thăng chức Giám Mục 

Qua bao nhiêu thăng trầm và thử thách, Dòng Thánh Giuse vẫn trên đà tiến triển. Năm 1941, trong số 38 tu sĩ, có 4 tu sĩ khấn trọn khấn trọn đời củng cố sự vững chãi của ngôi nhà thiêng liêng Hội Dòng. Đó là các Sư huynh : André Phùng Điểm, Dominique Hà Long Ẩn, Paul Nguyễn Định, Eugène Trần Đình Kính. Cha Sáng Lập vui mừng tin tưởng vào tương lai sáng lạng của đứa con tinh thần. Nhưng con đường phục vụ của ngài không chỉ dừng lại ở đó. Nhận thấy tài đức của cha Jean Sion trổi vượt, ngày 1 tháng 7 năm 1941, Đức Giám Mục giáo phận Qui Nhơn, Đức Cha Tardieu Phú, trao cho ngài thêm nhiệm vụ mới bằng việc nâng ngài làm Cha Chính giáo phận (Père Provicaire) kiêm Đại diện Thừa Ủy (Vicaire délégué). Với chức vụ này, ngài phải thường xuyên vắng nhà để chia sẻ với Đấng Bản Quyền nhiều công việc của giáo phận, hoặc đi kinh lý


giáo xứ xa xôi và ban bí tich Thêm sức. Rồi ngày 23 tháng 12 năm 1941, Tòa Thánh chọn ngài làm Giám mục Đại Diện Tông Tòa (Vicaire Apostolique) giáo phận Kontum kế vị Đức Cha Jannin Phước qua đời năm 1940. 

Việc tuyển chọn này làm ngài boăn khoăn lo lắng. Sau khi cầu nguyện ngài đã một lần từ chối. Nhưng ngày 29 tháng 1 năm 1942 ngài phải cúi đầu vâng phục quyết định của Tòa Thánh khi nhận bức diện tín của Đức Khâm mạng Tòa Thánh tại Việt Nam với nội dung: "Bộ Truyền Giáo báo tin cho cha rằng Đức Thánh Cha tha thiết yêu cầu cha Jean Sion chấp nhận." ( Propagande vous informe Saint Pierre exherte vivement Père Jean Sion accepter. Monini)." Tiếp theo là một lá thư dài của Đức Khâm mạng - Đức Cha Drapier - nhấn mạnh về đức vâng phục mà "Cha phải làm gương cho các tu sĩ của cha. Đó là một mệnh lệnh." Thánh ý Chúa đã rõ ràng. Chiều hôm ấy cha Jean Sion nhanh chóng thảo và gởi bức diện trả lời: "Sự tuyển chọn được chấp nhận vì vâng phục." (Nomination acceptée. Obéissance) 

Lễ tấn phong Giám mục được cử hành tại nhà thờ chánh tòa Qui Nhơn, ngày 22 tháng 4 năm 1942 nhằm lễ Thánh Giuse Quan Thầy Giáo hội (Fête du Patronage de Saint Joseph). Ngày 28 tháng 4 năm 1942, ngài lìa đoàn con lên Kontum nhận nhiệm vụ mới để lại cho Giáo phận Mẹ Qui Nhơn một công trình to lớn là một Hội Dòng gồm có 38 Sư huynh khấn (trong đó có 4 Sư huynh khấn trọn đời), 4 Tập sinh, 3 Dự Tập sinh và 60 Đệ tử. Về công tác thì anh em Giuse đang có mặt trong 20 giáo xứ điều hành 14 trường học, 5 sở quản lý của giáo phận. Mỗi năm dạy giáo lý cho hàng trăm tân tòng và trẻ em rước lễ lần đầu. Ngài bắt tay vào nhiệm vụ mới một cách hăng say và lạc quan với tâm tình Dilexi te.

2- Đường hướng mục vụ
Kontum, một giáo phận tách ra từ giáo phận Qui Nhơn năm 1930, nằm trên cao nguyên Gia Lai, Kontum, dân cư đa số là người Thượng sắc tộc Bahnar, Jarai, Êđê. Giáo phận mới thành lập, non trẻ, nghèo nàn, thiếu thốn nhiều điều, nhất là về nhân sự truyền giáo.

Đức Cha Jean Sion ý thức giáo phận đang ở vào một giai đoạn hết sứ khó khăn, nên ngày 5 tháng 12 năm 1943, ngài đã dâng hiến toàn thể giáo phận cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ Maria. 

Tiếp đến, Đức Cha Jean Sion chú trọng đến việc phát triển Chủng viện, mở nhiều trường học, sáng lập Tu viện và đi kinh lý đến với con chiên.

a - Phát triển Chủng viện 
Trước hết ngài chú tâm củng cố Trường Truyền Giáo (École apostolique). Việc đào tạo linh mục có phương pháp là mối ưu tư hàng đầu của Vị Tân Giám mục. Ngài chỉ thị cho các cha xứ tìm ơn gọi chủng sinh. Chính ngài có chân trong Ban Giảng huấn, trực tiếp kiểm soát việc học hành của chủng sinh và tham gia Hội Đồng Chấm Thi của Chủng viện. Hằng tuần vào chiều thứ Tư, ngài phụ trách huấn đức cho các chủng sinh.
Ngài xúc tiến việc thiết lập Trường Lý Đoán (Đại Chủng viện) riêng cho giáo phận Kontum, vì lúc bấy giờ (năm 1944) không thể gởi các đại chủng sinh vào Saigòn hay ra Hà Nội học.
Ngày 16 tháng 6 năm 1944, ngài ban hành văn kiện "Facultates Majoris Seminarii Kontummensis" thiết lập các Phân khoa của Đại Chủng Viện Kontum. Năm 1946, ngài ký ban hành quy chế cho Đại Chủng sinh Kontum "Statuta Ordinarii pro Anluminis Majoris Kontum". Trường Lý Đoán (Đại Chủng Viện) hoạt động với con số khiêm tốn khoảng 10 Đại Chủng sinh. Chính Đức Cha là Giám Đốc, cha Crétin làm Giáo sư, cha Thomann là Quản lý.

b - Mở nhiều trường học 
Ý thức nhiệm vụ Giám mục trên đất cao nguyên là truyền giáo, Đức Cha khuyến khích và thúc đẩy các linh mục lập nhiều trường học dạy văn hóa ở các giáo xứ. Ngài cho phát hành tạp san "Écho de la Mission" làm cơ quan liên lạc của giáo phận. Ngài thường xuyên viết bài hướng dẫn công việc truyền giáo kêu mời và cổ vũ phong trào tham gia tích cực truyền giáo trong giáo phận. Ngài đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo các giáo phu (les catéchistes montagnards), những giáo lý viên người dân tộc thiểu số. Ngài cho chỉnh đốn Trường đào tạo giáo phu và chỉ thị các cha xứ nâng đỡ và ân cần lo lắng cho các cộng tác viên quí bàu này để công tác truyền giáo của họ mang lai nhiều kết quả tốt đẹp.

c - Sáng lập Tu viện 
Để có thể đến với giáo dân dân tộc thiểu số có hiệu quả đồng thời khuyến khích họ dấn thân tích cực trong việc xây dựng giáo hội địa phương mà họ là nồng cốt, và cũng để đẩy mạnh công tác truyền giáo, Đức Cha nghĩ ngay đến việc thành lập một Hội Dòng qui tụ các thiếu nữ dân tộc thiểu số muốn dâng mình cho Chúa. Ý tưởng này được Đức Giám mục Jannin Phước (vị tiền nhiệm của ngài) đã ôm ấp nhưng chưa thực hiện được. Sau khi suy nghĩ kỹ càng, tháng 11 năm 1943, Đức Cha cho ra đời Hội Dòng ẢNH PHÉP LẠ (Congrégation de la Médaille Miraculeuse) cho các thiếu nữ người Bahnar. Hội Dòng được Tòa Thánh chuẩn nhận ngày 6 tháng 4 năm 1947. Ngày 27 tháng 11 năm 1948, lớp Tập sinh đầu tiên có 7 chị. Từ đó các nữ tu này góp phần rất hữu hiệu vào công việc truyền giáo cho đồng bào mình. ([I]Đọc thêm bài viết HỘI DÒNG "ẢNH PHÉP LẠ" nơi trang phụ bản) [/I]

d - Kinh lý đến với con chiên 

Đức Cha Jean Sion thường đi kinh lý đến với con chiên để hòa mình trong đời sống của họ tìm hiểu những nhu cầu vật chất và tinh thần của dân chúng. Ngài muốn các cuộc kinh lý phải được đón tiếp long trọng theo khả năng của từng giáo xứ để giáo dục giáo dân ý thức kính trọng Vị Đại Diện của Đức Thánh Cha. Ngài hay đến các xứ đạo xa xôi hẻo lánh thường ít người thăm viếng để hâm nóng lòng đạo đức của các con chiên. Ngài tiếp xúc trực tiếp với giáo dân với nét mặt vui tươi và cởi mở, với cách đối xử hiền hòa và rất bình dân. Phương tiện di chuyển thường là ngựa, đôi lúc đi ô tô hay cán khiêng.
Đặc biệt tháng Giêng năm 1944, ngài đi kinh lý Attopeu miền đất thuộc giáo phận Kontum nằm ở xứ Lào xa xôi chưa có Giám mục nào đặt chân đến. Ngài muốn chính mình lượng định về tinh hình lãnh thổ này. Cùng với hai bạn đồng nghiệp và hai hướng dẫn viên người dân tộc thiểu số, Đức Cha thực hiện cuộc kinh lý lịch sử bằng ngựa. Đường sá hiểm trở phải leo đèo, trèo dốc đứng sững, hoặc vượt qua bao nhiêu vực thẳm cheo leo, băng thác xuống ghềnh, ban đêm nghỉ chân giữa rừng núi âm u có lúc tưởng nguy đến tính mạng. Nhưng Đức Cha luôn luôn vui vẻ và lạc quan, ngài hoà đồng với đoàn tùy tùng trong mọi sinh hoạt để cổ vũ tinh thần chịu đựng của họ. Cuộc kinh lý ấy nuốt thời giờ của ngài mất 20 ngày cả đi lẫn về. Chính ngài đã viết bút ký thuật lại cuộc kinh lý ấy bằng một lối văn dí dỏm và thân tình hiện còn lưu giữ trong văn khố giáo phận Kontum.

3 - Vị Giám mục đau khổ 
Cuộc sống nào cũng có thánh giá. Nhiệm vụ nào cũng phải mang dấu ấn đau khổ. Ai đi theo Chúa Kitô cũng phải nhận thánh giá được trao phó từ Chúa Kitô, vi "ai muốn trở thành môn đệ Ta, hãy vác thánh giá mỗi ngày và theo Ta." Đức Cha Sion đã thấy rõ thánh giá của đời Giám mục, đặc biệt ngay trước khi ngài nhận lãnh ơn viên mãn của chức vụ Tư tế. Nhưng ngài can đảm chấp nhận, tin tưởng phó thác vào Chúa với tâm tinh "Dilexi te".
Bắt tay vào việc, Đức Cha đã hết sức làm việc đến quên mình. Cùng với nhiệm vụ, sự đau khổ cũng sớm đến với ngài. Ngài không được mạnh về thể lý. Bênh cao áp huyết và đau gan kinh niên làm ngài mau thắm mệt. Khi còn làm Bề Trên Dòng Anh Em Hèn Mọn Giuse ở Kim Châu, năm 1935, ngài phải vâng lời bác sĩ về Pháp chữa trị bệnh gan và điều dưỡng trong một năm. Nhưng chính những đau khổ về tinh thần đã hành hạ ngài khốc liệt hơn. Những đau khổ ấy đến từ mọi phía; từ công tác quản trị, từ các bạn bè, từ chính quyền bất công, từ tình hình chính trị bấp bênh và bất ổn.… Ta có thể đọc được tâm trạng đau khổ của ngài qua bút ký còn lưu trữ, nhất là trong quyển "Notes Personnelles" được xem là những lời di chúc. Những biến cố chính trị từ năm 1945 về sau làm căng thẳng tinh thần đến cao độ. Ngày 14 tháng 3 năm 1945, ngài bị quân đội Nhật quản thúc cùng các linh mục người Pháp. Sau đó các ngài bị đưa ra khỏi Kontum cùng với những Pháp kiều khác đi Qui Nhơn rồi đưa ra Nha Trang; mãi đến tháng 7 năm 1946 ngài mới được về lại giáo phận nhà. Kế đó là những năm tháng bất ổn trầm trọng do cuộc chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh. Nhiều cuộc khủng bố liên miên xảy ra trong thị xã Kontum và nhiều nơi khác trong giáo phận. Tuy nhiên Đưc Cha vẫn hăng say tiếp tục thực hiện những công trình còn dang dở và củng cố lại giáo phận trước những điêu tàn về vật chất và nhất là về tinh thần.

VI - NHỮNG NGÀY THÁNG CUỐI ĐỜI

Năm 1950 giáo phận Kontum hân hoan mừng kỷ niệm 100 năm các vị thừa sai đặt chân lên vùng cao nguyên rao giảng Tin Mừng. Mặc dầu sức khỏe giảm sút, Đức Cha vẫn chỉ thị cử hành long trọng biến cố lịch sử này bằng một cuộc lễ linh đình tổ chức trong 3 ngày, vào những ngày 6,7 và 8 tháng 2 năm 1950. Đức Giáo hoàng Piô XII gởi điện văn chia vui với giáo phận và ban phép lành Tòa Thánh làm bảo chứng tình ưu ái cha con. Sau đó được tin Tổng Tu Nghị Hội Thừa Sai Ba Lê (MEP) sẽ nhóm họp vào tháng 7 và 8 năm ấy. Đức Cha quyết định về dự hội nghị này. Để có thời giờ tĩnh dưỡng tại quê nhà trước khi dự Tổng Tu Nghị, Đức Cha định rời giáo phận vào tháng 4 năm 1950 về Pháp. Trong buổi lễ tiễn đưa tổ chức tại Trường Cuénot, ngài vui vẻ niềm nở đón tiếp mọi người và hẹn ngày tái ngộ vào mùa Thu năm ấy.Về đến quê nhà, Đức Cha Jean Sion được anh chị em và bà con vui mừng đón tiếp. Cả giáo xứ và thị trấn Estaires đều vui mừng và nơi nào ngài cũng được mến chuộng bỡi tính đơn sơ giản dị và lòng nhân hậu của ngài. Nhưng niềm vui đoàn tụ lần này có phảng phất một nỗi lo âu trên nét mặt của người thân vì họ nhận thấy nhiều nếp nhăn của tuổi già hiện rõ trên khuôn mặt của vị Thừa sai thân yêu.

Sau những ngày tháng tĩnh dưỡng dưới sự chăm sóc đặc biệt của gia đinh, sức khỏe Đức Cha không tiến triển hơn. Dù vậy ngài vẫn giữ ý định trở về giáo phận như lịch trình đã vạch. Nhưng việc ấy không thể thực hiện được vì sự từ chối của bác sĩ chữa trị do tình trạng sức khỏe của ngài ngày càng tệ.

Vì là con người suy tư, nỗi buồn ray rứt không được về lại giáo phận Kontum ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe khiến cho bệnh ngày càng gia tăng. Sự buồn nhớ giáo phận làm cho tâm hồn ngài chết điếng, có nhiều lúc ngài ngồi thinh lặng hàng giờ như người mất trí, hai mắt mờ dần khiến ngài không đọc kinh Nhật tụng được, phải cố gắng ngài mới có thể làm lễ được. Cho đến ngày 20 tháng 11 năm 1950 thì ngài bị lụy vì chứng sưng huyết não (congestion célébrale).

Tháng 2 năm 1951, ngài được chuyển về dưỡng đường của Hội Thừa Sai Ba lê ở Montbeton. Cũng có lúc ngài tỏ ra sáng suốt, nhất là những khi bạn bè đến thăm. Nhưng ước mơ về lại giáo phận Kontum luôn luôn ám ảnh ngài.

Thiên Chúa muốn nơi Đức Cha một của lễ hy sinh toàn vẹn là chết xa con cái và ngoài giáo phận mình, nơi mà ngài đã phó trót cuộc đời.

Ngày 19 tháng 8 năm 1951, sau khi nhận các bí tích cuối đời, Đức Cha đã ra đi về với Chúa nhận phần thưởng của người tôi tớ trung thành giữa tuổi đời 61, với công nghiệp 31 năm linh mục và 9 năm giám mục. 

Trên đây là bức chân dung trung thục của Đức Cha Jean Sion do một người con của ngài họa lại, chúng ta không cần thêm thắt gì hơn, ngoài trừ việc nêu cao những đức tính cao quí trong chức vụ Giám mục:

Khiêm tốn - Người tu sĩ Hèn Mọn Thánh Giuse Kim Châu đầu tiên đã trở thành Giám mục Tông Tòa Kontum do lòng vâng phục sự quan phòng của Thiên Chúa như ngài đã viết trong di chúc. Với một lòng nhân hậu to lớn, ngài đã yêu thương giáo phận mà Thiên Chúa giao phó, cũng như ngài đã yêu thương các Anh Em Hèn Mọn Thánh Giuse của ngài…. Dilexi te là câu châm ngôn mà ngài đã thực hiện trọn vẹn. Ngài đã chẳng tự nhũ là "người ta không bao giờ hối hận vì đã đối xử quá tốt với kẻ khác là gì !"

Đơn sơ và vui tính - Vị Sáng Lập Dòng chúng ta có một nếp sống rất đơn sơ và giản dị trong cuộc đời tu trì. Nhưng khi cần thì Đức Cha cũng tỏ ra là người lãnh đạo cương quyết. Ước muốn của ngài là mỗi người chúng ta thực hành đức vâng phục. Ngài đã ghi trong Huy hiệu Giám mục chữ "REGULA" (LỀ LUẬT). Lề luật ấy chỉ có thể giải thích bằng tình yêu mà thôi.


(Nguồn tài liệu: Blog Huynh Đệ Cựu Ngôi Lời-Giuse)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét